TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỊNH QUÁN, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 62/2021/HS-ST NGÀY 23/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 23 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Định Quán, tỉnh Đồng nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 94/2021/TLST-HS ngày 23 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2021/QĐXXST- HS ngày 06 tháng 9 năm 2021 và Thông báo số 465/2021 ngày 16 tháng 9 năm 2021 về việc dời lại thời gian mở phiên tòa đối với các bị cáo:
1. Trần Đình T - Sinh năm 1998, tại Đồng Nai.
Nơi cư trú: ấp Đ, xã T, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đình Thọ – sinh năm 1964 và bà Ngô Thị Mỹ Hoa – sinh năm 1964; vợ: Hà Thị Ngọc T – sinh năm 1995, con: có 01 con sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: không. Nhân thân: ngày 24/11/2005, bị Toà án nhân dân huyện Định Quán, tuyên xử Trần Đình T 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 21/02/2006, bị Toà án nhân dân huyện Định Quán, tuyên xử Trần Đình T 06 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; ngày 19/01/2007, bị Toà án nhân dân huyện Định Quán, tuyên xử Trần Đình T 01 năm 8 tháng tù về tội “Gây rối trật tự C cộng” và tội “Huỷ hoại tài sản”; tổng hợp hình phạt của các bản án trước, Trần Đình T phải chấp hành hình phạt chung của các bản án là 02 năm 08 tháng tù, chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/01/2009.
Bị cáo bị bắt truy nã ngày 17/6/2021 và đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - C an huyện Định Quán cho đến nay (Có mặt).
2. Đào Anh K - sinh năm 2000, tại Đồng Nai.
Nơi cư trú: ấp Đ, xã T, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Thành N – sinh năm 1979 và bà Đỗ Thị Thanh T – sinh năm 1980; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: không; bị cáo bị bắt ngày 05/4/2021 và đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - C an huyện Định Quán cho đến nay (Có mặt).
Bị hại:
Anh Phan Văn H – sinh năm 1965; nơi cư trú: ấp Đ, xã T, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai (Vắng mặt).
Anh Hồ Văn C– sinh năm 1994; nơi cư trú: ấp Đ, xã T, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Đào Anh K và Trần Đình T là bạn bè quen biết với nhau. Do muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên K và T cùng rủ nhau đi tìm nhà dân có sơ hở để trộm cắp tài sản. Vào ngày 10/11/2020, T và K đi đến khu vực sân banh xã Túc Trưng, huyện Định Quán thì phát hiện 01 cái máy điều hòa hiệu Toshiba Inverter 1hp gồm 01 cục nóng và 01 cục lạnh để sau nhà của anh Hồ Văn C, nên nảy sinh ý định trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài, nhưng do trời còn sáng nên cả hai quay về nhà T đợi trời tối rồi đi trộm cắp. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, T lấy 01 xe mô tô biển số 60L2 – 4450 của ông Lê Văn Toàn (ông Toàn là hàng xóm của T), rồi rủ K đi trộm cắp tài sản, K đồng ý. Khi đi K chở T bằng xe mô tô biển số 60L2 – 4450, cả 02 đi đến nhà ông Phan Văn H, ở ấp Đồn Điền 1, xã Túc Trưng, để trộm cắp tài sản. Khi đến nơi K dựng xe, đứng phía ngoài canh chừng, còn T lẻn vào trong sân nhà ông H lấy 01 bình ắc quy hiệu PINACO Đồng Nai của xe máy cày. Sau khi trộm cắp được tài sản T mang 01 bình ắc quy ra khu vực K đứng chờ sẵn rồi cả hai chở bình ắc quy về nhà T cất giấu. Sau đó, T điều khiển xe chở K quay lại khu vực sân banh xã Túc Trưng để trộm cắp cái máy lạnh của anh Hồ Văn C mà trước đó cả 02 đã phát hiện, đến nhà anh C, T dựng xe ở sân banh, đi bộ đến khu vực hàng rào sau nhà anh C, K đứng ngoài canh chừng còn T chui qua hàng rào vào sau nhà anh C lấy 01 cục lạnh của máy điều hòa đưa cho K mang ra vị trí dựng xe rồi T tiếp tục đi vào lấy 01 cục nóng của máy điều hòa. Sau đó, cả hai chở máy điều hòa vừa trộm cắp được về nhà T cất giấu.
Đến ngày 11/11/2020 thì Đào Anh K và Trần Đình T bị C an xã Phú Túc mời về làm việc, cả 02 đã khai nhận việc trộm cắp của mình. Vụ việc được chuyển đến Cơ quan điều tra – C an huyện Định Quán để xử lý theo thẩm quyền.
Tại Cơ quan điều tra, Đào Anh K, Trần Đình T đã khai nhận hành vi phạm tội của bản thân (Bút lục từ 88-89, 106-114).
Tài sản thiệt hại: Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Định Quán ngày 02/03/2021 kết luận: 01 bình ắc quy hiệu PINACO (12V-70Ah) màu trắng đen trị giá 1.200.000 đồng; 01 máy điều hòa hiệu Toshiba Inverter 1hp gồm 01 cục nóng và 01 cục lạnh trị giá 7.800.000 đồng. Tổng trị giá tài sản thiệt hại là 9.000.000 đồng.
Vật chứng thu giữ trong các vụ án: 01 bình ắc quy hiệu PINACO (12V-70Ah), màu trắng đen; 01 máy điều hòa hiệu Toshiba Inverter 1hp gồm 01 cục nóng và 01 cục lạnh; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu xanh; 01 điện thoại di động hiệu Mobell, màu đen bạc; 01 xe mô tô hiệu VECSTAR, màu nâu, biển số 60L2 – 4450 của ông Lê Văn Toàn là chủ sở hữu.
Tại Cáo trạng số 82/CT-VKSĐQ ngày 22 tháng 7 năm 2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Quán đã truy tố các bị các cáo Trần Đình T và Đào Anh K về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015.
Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Quán tham gia phiên tòa trình bày luận tội và giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, riêng bị cáo K áp dụng thêm điểm i khoản 1 Điề 51; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017: xử phạt bị cáo Trần Đình T từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù giam và xử phạt bị cáo Đào Anh K từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù giam.
Về trách nhiệm dân sự: Sau khi sự việc xảy ra, ông Phan Văn H và anh Hồ Văn C đã nhận lại tài sản và không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường nên không xem xét.
Tại phiên tòa: Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, các bị cáo thống nhất về tội danh, các tình tiết tăng năng giảm nhẹ và mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát vừa đề nghị áp dụng đối với các bị cáo, thống nhất về xử lý vật chứng và tự nguyện bồi thường cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và không có ý kiến hay tranh luận gì khác.
Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét thấy lời khai nhận tội tại phiên tòa của các bị cáo phù hợp với vật chứng của vụ án, các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, có đủ cơ sở kết luận Cáo trạng số 82/CT-VKSĐQ ngày 22 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Quán đã truy tố các bị các cáo Trần Đình T và Đào Anh K về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
[2] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của C dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội tại địa phương. Trong vụ án này các bị cáo là C dân có đủ nhận thức để hiểu được hậu quả của hành vi sai trái và những quy định cấm đoán của pháp luật đối với hành vi phạm tội, nhưng vì tham lam, vụ lợi mà các bị cáo cố ý thực hiện hành vi phạm tội nên cần thiết đưa ra xét xử nhằm răn đe, giáo dục các bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung trong xã hội, tuy nhiên cũng cần phải cá thể hóa hình phạt đối với từng bị cáo để đảm bảo tính khách quan và nhân đạo của pháp luật.
Đây là vụ án mang tính đồng phạm giản đơn, bị can Trần Đình T là người rủ rê và trực tiếp cùng Đào Anh K thực hiện tội phạm, bị cáo T có nhân thân xấu nên mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo phải là hình phạt tù và cao hơn bị cáo K. Bị cáo K tham gia với vai trò đồng phạm giúp sức tích cực nên hình phạt áp dụng đối với bị cáo phải là hình phạt tù.
[3] Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này được quy định tại điểm i, s, khoản 1, Điều 51 của Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo T không được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, khoản 1, Điều 51 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra các bị cáo có những tình tiết giảm nhẹ khác theo quy định tại khoản 2, Điều 51 của Bộ luật hình sự như: Các bị cáo có hoàn cảnh gia đình kinh tế khó khăn, tài sản thiệt hại đã thu hồi và trao trả cho chủ sở hữu. Từ những nhận định nêu trên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ phần nào hình phạt cho các bị cáo khi lượng hình.
[5] Về xử lý vật chứng và các vấn đề khác trong vụ án - 01 bình ắc quy hiệu PINACO (12V-70Ah), màu trắng đen, là tài sản của ông Phan Văn H. Cơ quan điều tra đã trao trả cho ông H là có cơ sở (bút lục 63,66);
- 01 máy điều hòa hiệu Toshiba Inverter 1hp gồm 01 cục nóng và 01 cục lạnh, là tài sản của anh Hồ Văn C. Cơ quan điều tra đã trao trả cho anh C là có cơ sở (bút lục 63,65);
- 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu xanh của Đào Anh K, không sử dụng vào mục đích trộm cắp nên Cơ quan điều tra đã trao trả cho K là có cơ sở (bút lục 63,64);
- 01 điện thoại di động hiệu Mobell, màu đen bạc của Trần Đình T, không sử dụng vào mục đích trộm cắp nên Cơ quan điều tra đã trao trả cho T là có cơ sở (bút lục 143) Đối với 01 xe mô tô hiệu VECSTAR, màu nâu, biển số 60L2 – 4450 của ông Lê Văn Toàn là chủ sở hữu. Quá trình điều tra xác định, vào ngày 10/11/2020, Trần Đình T tự ý lấy xe của ông Toàn đi sử dụng vào việc phạm tội nhưng ông Toàn không biết và ông Toàn không có yêu cầu gì nên Cơ quan điều tra không thu giữ xe mô tô để xử lý là có cơ sở (bút lục 93-94);
[7] Về trách nhiệm dân sự:
Sau khi sự việc xảy ra, ông Phan Văn H và anh Hồ Văn C đã nhận lại tài sản và không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường nên không xem xét.
[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
[9] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét chấp nhận quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị về tội danh đối với các bị cáo, hình phạt, xử lý vật chứng và các vấn đề khác.
[10] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố các bị cáo Trần Đức T và Đào Anh K phạm tội “Trộm cắp tài sản”;
Căn cứ vào khoản 1, Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017;
- Xử phạt: Trần Đức T 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/6/2021.
Căn cứ vào khoản 1, Điều 173; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017;
- Xử phạt: Đào Anh K 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/4/2021.
Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
- Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.
- Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
- Bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết công khai
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 62/2021/HS-ST
Số hiệu: | 62/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Định Quán - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về