Bản án về tội trộm cắp tài sản số 615/2020/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 615/2020/HS-PT NGÀY 29/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 564/2020/HSPT ngày 11/11/2020 đối với bị cáo Lưu Phùng M do có kháng cáo của bị cáo và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 đối với bản án hình sự sơ thẩm số 69/2020/HS-ST ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân Quận 6.

Bị cáo có kháng cáo và bị kháng nghị:

Lưu Phùng M, sinh năm 1978 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: 6Q’ đường H, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Hoa; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lưu V và bà Nguyễn Thị H; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không. Bị tạm giữ ngày 22/6/2020, đến ngày 01/7/2020 được thay đổi bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 16 giờ 30 phút ngày 15/6/2020, khi đi ngang qua sạp bán văn phòng phẩm C7 của ông Nguyễn Văn Trung, số 34C Tháp Mười, Phường 2, Quận 6, Lưu Phùng M thấy bên hông sạp có để nhiều thùng hàng mà không có người trông coi, nên nảy sinh ý định chiếm đoạt. Để thực hiện ý định, M đến lấy 01 thùng bút bi gel xóa Thiên Long nhãn hiệu TP-GELE01 (bên trong có 48 hộp, mỗi hộp có 20 cây) chất lên xe gắn máy biển số 59L2-860.58 chở về nhà cất giấu. Đến ngày 17/6/2020, M đem thùng bút bi này đến sạp bán tạp hóa Vĩnh Tiên - Số 971 Chợ Bình Tây, Phường 2, Quận 6 bán cho bà Nguyễn Đặng Thủy Tiên với giá 5.000.000 đồng.

Sau khi phát hiện thấy mất thùng bút bi, ông Nguyễn Văn Trung kiểm tra Camera ghi hình thì phát hiện Lưu Phùng M chính là người đã lấy trộm nên đi tìm. Khoảng 13 giờ ngày 21/6/2020, ông Trung phát hiện M đang ở khu vực giao lộ đường Tháp Mười - Nguyễn Hữu Thận nên báo Công an Phường 2, Quận 6 bắt giữ.

Tại Cơ quan điều tra, Lưu Phùng M khai nhận hành vi phạm tội như trên và nộp lại 4.500.000 đồng là tiền bán thùng bút bi chưa tiêu xài hết.

Vật chứng thu giữ: 01 chiếc xe gắn máy biển số 59L2-860.58; 01 Giấy đăng ký xe môtô, xe máy biển số 59L2-860.58 (mang tên Lưu Phùng M); 01 nón bảo hiểm màu trắng đen; 01 đôi dép và số tiền 4.500.000 đồng.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 68/KL-HĐĐGTS ngày 27 tháng 8 năm 2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 6 đã kết luận: 48 hộp bút bi gel xóa Thiên Long nhãn hiệu TP-GELE01 (mỗi hộp có 20 cây) tại thời điểm ngày 15/6/2020 trị giá 5.760.000 đồng.

Bà Nguyễn Đặng Thủy Tiên là người đã mua 48 hộp bút bi gel xóa Thiên Long nhãn hiệu TP-GELE01 từ Lưu Phùng M nhưng bà Tiên không biết đó là tài sản do phạm tội mà có, nên cơ quan điều tra không truy cứu trách nhiệm hình sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 69/2020/HS-ST ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Lưu Phùng M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Lưu Phùng M 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng, kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Lưu Phùng M cho Ủy ban nhân dân Phường 9, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo Lưu Phùng M có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát và giáo dục bị cáo Lưu Phùng M.

Trường hợp người được hưởng án treo vắng mặt tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a, b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước: 01 (một) chiếc xe gắn máy biển số 59L2-860.58, kèm theo 01 (một) Giấy đăng ký xe môtô, xe máy biển số 59L2-860.58, mang tên Lưu Phùng M và 4.500.000 đồng.

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy: 01 (một) nón bảo hiểm màu trắng đen; 01 (một) đôi dép.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 14/10/2020, bị cáo Lưu Phùng M có đơn kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân Quận 6, đề nghị xem xét cho bị cáo được nhận lại số tiền 4.500.000 đồng và chiếc xe gắn máy biển số 59L2-860.58 để làm phương tiện đi lại.

Ngày 12/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐ-VKS-Q6 kháng nghị một phần bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân Quận 6, đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sửa bản án, tuyên trả lại số tiền 4.500.000 đồng cho bị cáo Lưu Phùng M.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, bị cáo Lưu Phùng M đã thừa nhận các hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xác định bản án sơ thẩm đã áp dụng đúng các căn cứ pháp luật để xét xử bị cáo Lưu Phùng M 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội danh “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo có kháng cáo, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 kháng nghị trong thời hạn luật định. Đối với kháng cáo của bị cáo xin được nhận lại chiếc xe gắn máy biển số 59L2- 860.58, do chiếc xe này được bị cáo sử dụng để cất giữ, vận chuyển tài sản trộm cắp được nên đây là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước đối với chiếc xe gắn máy biển số 59L2-860.58 là đúng quy định. Riêng nội dung kháng cáo và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, nhận thấy bản án sơ thẩm tuyên tịch thu, nộp vào ngân sách nhà nước số tiền 4.500.000 đồng thu giữ của bị cáo Lưu Phùng M, trong khi bị cáo đã bồi thường cho bị hại Nguyễn Văn Trung số tiền 5.000.000 đồng, là buộc bị cáo M phải nộp 02 lần tiền, gây bất lợi cho bị cáo. Vi phạm hướng dẫn tại Mục 7 Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng nghị số 01/QĐ-VKS-Q6 ngày 12/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Lưu Phùng M, sửa bản án sơ thẩm, tuyên trả lại số tiền 4.500.000 đồng cho bị cáo Lưu Phùng M.

Bị cáo Lưu Phùng M không tranh luận, chỉ nói lời sau cùng xin được hưởng án treo để có điều kiện ở ngoài nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân Quận 6, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân Quận 6, Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, bị cáo Lưu Phùng M đã thừa nhận hành vi sai trái do bị cáo gây ra như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu. Cụ thể: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 15/6/2020, lợi dụng sự sơ hở, Lưu Phùng M đã lén lút lấy trộm của ông Nguyễn Văn Trung 01 thùng bút bi gel xóa Thiên Long nhãn hiệu TP-GELE01 (bên trong có 48 hộp, mỗi hộp có 20 cây) trị giá 5.760.000 đồng tại bên hông sạp bán văn phòng phẩm - Số 34C đường Tháp Mười, Phường 2, Quận 6 rồi chất lên xe gắn máy biển số 59L2-860.58 chở về cất giấu và đem đi bán.

Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lưu Phùng M về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo thì mức án 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Trộm cắp tài sản đối với bị cáo Lưu Phùng M mà tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt là thỏa đáng, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo không có kháng cáo, Viện kiểm sát không có kháng nghị về phần hình phạt nên cấp phúc thẩm không xem xét.

[4] Đối với kháng cáo của bị cáo Lưu Phùng M về đề nghị xin nhận được nhận lại chiếc xe hai bánh gắn máy biển số 59L2-860.58. Do chiếc xe này được bị cáo sử dụng để cất giữ, vận chuyển tài sản sau khi trộm cắp được để đem đi bán nên chiếc xe này là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội. Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước đối với chiếc xe gắn máy trên là đúng quy định. Vì vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận nội dung kháng cáo xin được nhận lại xe của bị cáo Lưu Phùng M.

[5] Đối với kháng cáo của bị cáo Lưu Phùng M xin được nhận lại số tiền 4.500.000 đồng và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Quận 6:

Xét bản án sơ thẩm tuyên tịch thu, nộp vào ngân sách nhà nước số tiền 4.500.000 đồng thu giữ của bị cáo Lưu Phùng M, trong khi bị cáo đã bồi thường cho bị hại Nguyễn Văn Trung số tiền 5.000.000 đồng, là buộc bị cáo Minh phải nộp 02 lần tiền, gây bất lợi cho bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy, bản án sơ thẩm xác định tài sản của bị hại Nguyễn Văn Trung bị thiệt hại theo kết luận định giá là trị giá 5.760.000 đồng nhưng bị cáo đã thỏa thuận bồi thường cho ông Trung số tiền 5.000.000 đồng. Ngày 17/9/2020, ông Trung đã có đơn không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm trước khi mở phiên tòa sơ thẩm. Bị cáo bán tài sản trộm cắp là 01 thùng bút bi gel xóa Thiên Long nhãn hiệu TP-GELE01 được 5.000.000 đồng, còn lại 4.500.000 đồng chưa tiêu xài hết, nhưng bị cáo đã sử dụng tiền của mình bồi thường trả lại cho bị hại theo thỏa thuận. Số tiền 4.500.000 đồng chỉ được xem là số tiền thu lợi bất chính khi người bị hại không yêu cầu bồi thường.

Do đó, việc Tòa cấp sơ thẩm xác định số tiền bị cáo bán tài sản trộm cắp được trong trường hợp này là tiền thu lợi bất chính và tuyên tịch thu, nộp vào ngân sách nhà nước là không đúng, gây bất lợi cho bị cáo. Vi phạm hướng dẫn tại Mục 7 Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị số 01/QĐ-VKS-Q6 ngày 12/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Lưu Phùng M, sửa bản án sơ thẩm, tuyên trả lại số tiền 4.500.000 đồng cho bị cáo Lưu Phùng M.

Do chấp nhận kháng cáo nên bị cáo Lưu Phùng M không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các vấn đề khác không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự; Chấp nhận kháng nghị số 01/QĐ-VKS-Q6 ngày 12/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Lưu Phùng M, sửa bản án sơ thẩm số 69/2020/HS-ST ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân Quận 6.

Tuyên bố bị cáo Lưu Phùng M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Lưu Phùng M 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Lưu Phùng M cho Ủy ban nhân dân Phường 9, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo vắng mặt tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Trả lại cho bị cáo Lưu Phùng M số tiền 4.500.000 (bốn triệu năm trăm ngàn) đồng.

- Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước: Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) chiếc xe gắn máy biển số 59L2-860.58, số khung: RL9S1GJBKAS000023, số máy: VZS1P52QMJG000023 (loại xe hai bánh từ 50-175cm3, nhãn hiệu UMV, số loại SELENA, sơn màu Đỏ, dung tích 124) kèm theo 01 (một) Giấy đăng ký xe môtô, xe máy biển số 59L2-860.58, mang tên Lưu Phùng M.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) nón bảo hiểm màu trắng đen; 01 (một) đôi dép.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 132/PNK ngày 30/6/2020; Giấy nộp tiền ngày 10/9/2020 và Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 17/9/2020 của Công an Quận 6; Quyết định chuyển vật chứng số: 36/QĐ-VKS-Q6 ngày 15/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 6).

Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 615/2020/HS-PT

Số hiệu:615/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về