Bản án về tội trộm cắp tài sản số 61/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 61/2023/HS-ST NGÀY 15/05/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15/5/2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 61/2023/TLST-HS, ngày 20/4/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2023/QĐXXST-HS, ngày 04/5/2023 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Trần Văn M, sinh ngày 05/5/1993, tại Sơn Dương, Tuyên Quang. Nơi cư trú: Thôn Đồng Phú, xã Hào P, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn C, sinh năm 1968 và bà Đỗ Thị T, sinh năm 1962; Vợ, Con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 13/02/2023 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

2. Họ và tên: Hà Văn Q, sinh ngày 07/3/1986, tại Sơn Dương, Tuyên Quang. Nơi cư trú: Thôn T1, xã H, huyện S, tỉnh T; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hà Văn Q sinh năm 1961 và bà Trần Thị H, sinh năm 1965; Vợ: Hoàng Thị L (đã ly hôn); Con: có 03 con, lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2019; Tiền sự: Không.

Tiền án: Tại bản án hình sự phúc thẩm số 494/HSPT ngày 09/10/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, xử phạt Hà Văn Q 01 năm tù về tội Tổ chức đánh bạc. Ngày 25/01/2022, Q đã chấp hành xong bản án.

Nhân thân: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 102a/QĐ-XPVPHC ngày 15/3/2018 của Công an huyện Sơn Dương, xử phạt vi phạm hành chính đối với Hà Văn Q về hành vi đánh anh Dương Văn Sơn, hình thức phạt tiền, mức phạt 750.000 đồng.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 13/02/2023 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

Các bị hại:

+ Ông Nguyễn Như S, sinh năm 1976. Địa chỉ: Thôn G, xã P, huyện S, tỉnh T. Vắng mặt.

+ Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1968. Địa chỉ: Thôn S, xã H, huyện S tỉnh T. Vắng mặt.

+ Bà Hoàng Thị C1, sinh năm 1973. Địa chỉ: Thôn P, xã H, huyện S, tỉnh T. Vắng mặt.

+ Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1990. Địa chỉ: Thôn T, xã Ta, huyện S, tỉnh T. Vắng mặt.

+ Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1963. Địa chỉ: Thôn Q, xã H, huyện S, tỉnh T. Vắng mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Hữu H, sinh năm 1987. Địa chỉ: Tổ dân phố L, thị trấn T, huyện S, tỉnh V.Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 12/02/2023, Trần Văn M, sinh năm 1993, cư trú tại thôn Đ, xã H, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang gọi điện rủ Hà Văn Q, sinh năm 1986, cư trú tại thôn T, xã H, huyện Sơn Dương đi mua ma tuý về sử dụng, Q đồng ý và điều khiển xe mô tô Honda super Dream, biển số đăng ký 22H7-X của gia đình Q đến đón M. Sau đó M điều khiển xe mô tô trên chở Q ngồi sau đến khu vực xã Phú L, huyện Sơn Dương, M và Q rủ nhau đi tìm xem có tài sản của ai để sơ hở lấy trộm, bán lấy tiền mua ma tuý sử dụng. Khi đến khu vực chợ thuộc thôn Gia Cát, xã Phú L thì M điều khiển xe mô tô đi vào chợ, đến đoạn đường bê tông ngõ cụt M phát hiện có 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu WAVE ALPHA màu đỏ đen, biển số đăng ký 19E1-X của anh Nguyễn Như S, sinh năm 1976, cư trú tại thôn Gia Cát, xã Phú L, huyện Sơn Dương dựng ở sân nhà ông Nguyễn Đức Th, sinh năm 1974, cư trú cùng thôn, không có người trông coi quản lý, M bảo Q đứng ngoài canh gác cảnh giới, còn M đi đến chỗ chiếc xe mô tô thấy chìa khoá xe vẫn cắm ở ổ khoá điện, M vặn chìa khoá và nổ máy lấy trộm xe mô tô điều khiển đi, còn Q điều khiển xe mô tô của Q cùng nhau đến quán sửa xe của anh Nguyễn Hữu H, sinh năm 1987, cư trú tại tổ dân phố Lạc K, thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc cầm cố được số tiền 2.500.000 đồng. Sau đó M và Q đến khu vực ngã ba trung tâm xã Lãng Công, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc mua 01 gói ma túy của một người đàn ông không biết tên tuổi, địa chỉ với số tiền 1.000.000 đồng rồi về đồi cây thuộc thôn Thái Hòa, xã Tam Đ, huyện Sơn Dương cùng nhau sử dụng bằng hình thức tiêm trích ma túy vào cơ thể. Số tiền còn lại M và Q chi tiêu cá nhân hết.

Tại kết luận định giá tài sản số 20/KL-HĐĐGTSTTHS ngày 13/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Sơn Dương, kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE, biển số đăng ký 19E1-X tính đến thời điểm mất trộm ngày 12/02/2023 trị giá 10.667.000đ (Mười triệu sáu trăm sáu mươi bẩy nghìn đồng).

Ngoài hành vi trộm cắp xe mô tô trên, Hà Văn Q và Trần Văn M còn thực hiện 04 vụ trộm cắp tàn sản (gà, ngan) trên địa bàn xã Hào P và xã Tam Đ, huyện Sơn Dương, cụ thể như sau:

Lần 1: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 28/01/2023, Q và M trộm cắp 03 con ngan đực màu lông trắng, trọng lượng 12kg và 03 con gà mái màu lông xám, trọng lượng 06kg của bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1968, cư trú tại thôn Đồng Tâm, xã Hào P, huyện Sơn Dương. Sau đó Q và M mang đến khu vực ngã 3 xã Sơn Nam, huyện Sơn Dương bán cho người đàn ông không biết tên tuổi, địa chỉ được 800.000 đồng, Q và M đi mua ma túy về sử dụng hết.

Lần 2: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 02/02/2023, Q và M trộm cắp 12 con gà (02 con gà trống màu lông vàng, trọng lượng 03kg và 10 con gà mái màu lông xám, trọng lượng 15kg) của bà Hoàng Thị Ch, sinh năm 1973, cư trú tại thôn Phú Đa, xã Hào P, huyện Sơn Dương. Sau đó Q và M mang đến khu vực ngã 3 xã Sơn Nam, huyện Sơn Dương bán cho người đàn ông không biết tên tuổi, địa chỉ được 900.000 đồng, Q và M đi mua ma túy về sử dụng và chi tiêu cá nhân hết.

Lần 3: Khoảng 14 giờ ngày 05/02/2023, Q và M trộm cắp 02 con gà mái màu lông xám, trọng lượng 04kg của chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1990, cư trú tại thôn Tân Tiến, xã Tam Đ, huyện Sơn Dương. Sau đó Q và M mang đến khu vực ngã 3 xã Sơn Nam, huyện Sơn Dương bán cho người đàn ông không biết tên tuổi, địa chỉ được 300.000 đồng, Q và M đi mua ma túy về sử dụng và chi tiêu cá nhân hết.

Lần 4: Khoảng 09 giờ 15 phút ngày 07/02/2023, Q và M trộm cắp 03 con gà (01 con gà trống màu lông đen, trọng lượng 02kg và 02 con gà mái màu lông xám, trọng lượng 03kg) của bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1963, cư trú tại thôn Quang Tất, xã Hào P, huyện Sơn Dương. Sau đó Q và M mang đến khu vực ngã 3 xã Sơn Nam, huyện Sơn Dương bán cho người đàn ông không biết tên tuổi, địa chỉ được 300.000 đồng, Q và M đi mua ma túy về sử dụng và chi tiêu cá nhân hết.

Tại kết luận định giá tài sản số 27/KL-HĐĐGTSTTHS ngày 28/3/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Sơn Dương, kết luận: Tổng số gà, ngan do Hà Văn Q và Trần Văn M trộm cắp trong 04 lần trị giá 4.470.000đ (Bốn triệu bốn trăm bảy mươi nghìn đồng).

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy trong cơ thể đối với M và Q, kết quả (+) dương tính, có chất ma túy trong cơ thể.

Về vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương tạm giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE ALPHA màu đỏ đen bạc, biển số đăng ký 19E1-X, xe cũ đã qua sử dụng. Ngày 16/3/2023 Cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương đã trả lại cho anh Nguyễn Như S là chủ sở hữu hợp pháp.

Về dân sự: Các bị hại không yêu cầu các bị cáo bồi thường; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Hữu H không yêu cầu các bị cáo bồi hoàn.

Từ nội dung trên, tại Cáo trạng số 69/CT-VKSSD, ngày 20/4/2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương đã truy tố Trần Văn M, Hà Văn Q về Tội trộm cắp tài sản, quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo và đề nghị:

- Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn M, Hà Văn Q phạm Tội trộm cắp tài sản.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn M từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38, 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Hà Văn Q từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày các bị cáo bị bắt tạm giam; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về nghĩa vụ chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Kết thúc phần tranh tụng, các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa các bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt, nhưng trong quá trình điều tra đã có tường trình và lời khai thể hiện quan điểm của các bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Vì vậy, Hội đồng xét xử sử dụng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã thu thập được trong quá trình điều tra để giải quyết, xét xử, không cần thiết hoãn phiên tòa để triệu tập các thành phần vắng mặt nêu trên.

[2] Về nội dung vụ án: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Ngoài lời khai nhận tội của bị cáo, hành vi phạm tội của các bị cáo còn được chứng minh bằng: Vật chứng đã thu giữ, kết luận định giá tài sản, biên bản khám nghiệm hiện trường, lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ trên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 12/02/2023, tại sân nhà ông Nguyễn Đức Th, sinh năm 1974, trú tại thôn Gia Cát, xã Phú L, huyện Sơn Dương. Trần Văn M và Hà Văn Q đã có hành vi trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE ALPHA màu đỏ đen, biển số đăng ký 19E1-X của anh Nguyễn Như S, sinh năm 1976, cư trú tại thôn Gia Cát, xã Phú L, huyện Sơn Dương trị giá 10.667.000 đồng.

Ngoài ra, trong khoảng thời gian từ ngày 28/01/2023 đến ngày 07/02/2023, M và Q còn 04 lần trộm cắp gà, ngan của bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1968, cư trú tại thôn Đồng Tâm, xã Hào P, huyện Sơn Dương; bà Hoàng Thị Ch, sinh năm 1973, cư trú tại thôn Phú Đa, xã Hào P, huyện Sơn Dương; chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1990, cư trú tại thôn Tân Tiến, xã Tam Đ, huyện Sơn Dương và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1963, cư trú tại thôn Quang Tất, xã Hào P, huyện Sơn Dương. Tổng trị giá tài sản trộm cắp trong 04 lần là 4.470.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản Q và M trộm cắp là 15.137.000đ (Mười lăm triệu, một trăm ba mươi bảy nghìn đồng).

Hành vi của các bị cáo đã phạm vào Tội trộm cắp tài sản. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang truy tố các bị cáo theo tội danh và điều luật như cáo trạng là có căn cứ pháp luật.

Các bị cáo phạm tội với tính chất là đồng phạm giản đơn, không có sự bàn bạc, cấu kết chặt chẽ. Đánh giá vai trò của các bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội là ngang nhau.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Văn M và Hà Văn Q bị áp dụng tình tiết Phạm tội 02 lần trở lên, quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tại bản án hình sự phúc thẩm số 494/HSPT ngày 09/10/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, xử phạt Hà Văn Q 01 năm tù về tội Tổ chức đánh bạc, bị cáo chưa được xóa án tích, nên lần phạm tội này của bị cáo Q thuộc trường hợp tái phạm quy định tại đoạn 1 điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà các bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần áp dụng khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.

[4] Về mức án Viện kiểm sát đề nghị:

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm mất trật tự trị an tại địa phương, lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác trong quản lý tài sản của các bị hại để trộm cắp, chiếm đoạt tài sản; trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo hộ. Bản thân các bị cáo là người sử dụng ma túy không chịu tu dưỡng, rèn luyện, ham chơi nhưng lại lười lao động; bị cáo Q có một tiền án và đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính, nhưng các bị cáo không lấy đó làm bài học để rút kinh nghiệm, rèn luyện bản thân mà lại liên tục thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của các bị cáo là cố ý, thể hiện sự coi thường pháp luật, vì vậy cần phải có hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo, buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù giam trong một khoảng thời gian nhất định, để giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

Vai trò của các bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội là ngang nhau, nhưng bị cáo Q có nhiều tình tiết tăng nặng hơn, có nhân thân không tốt, vì vậy xử phạt bị cáo Q mức án cao hơn là phù hợp.

Xét các bị cáo không có tài sản riêng có giá trị, không có thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường, bồi hoàn về dân sự, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về vật chứng: Ngày 16/3/2023 Cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương đã trả lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE ALPHA màu đỏ đen bạc, biển số đăng ký 19E1-X cho anh Nguyễn Như S là chủ sở hữu hợp pháp, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8] Về việc xem xét tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.

Quá trình điều tra, truy tố các Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm do Luật định. Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, giải quyết vụ án đúng theo trình tự, thủ tục được thể hiện thông qua việc ghi chép, ghi âm, ghi hình, lập biên bản các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, thực hiện việc xét hỏi, tranh tụng đúng quy định tại các Điều 289, 306, 315, 320, 321, 322 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[9] Các vấn đề khác:

Đối với Nguyễn Hữu H, sinh năm 1987, cư trú tại tổ dân phố Lạc K, thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc là người nhận cầm cố tài sản cho M và Q, nhưng Hiệp không biết tài sản do trộm cắp mà có; đối với người đàn ông mua ngan, gà tại khu vực ngã 3 xã Sơn Nam, huyện Sơn Dương (theo lời khai của M và Q), nhưng quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Trần Văn M và Hà Văn Q. Công an huyện Sơn Dương đã xử phạt hành chính, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Văn M, Hà Văn Q phạm Tội trộm cắp tài sản.

2. Về hình phạt:

2.1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38, 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Hà Văn Q 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam (13/02/2023).

2.2. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Văn M 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam (13/02/2023).

3. Về án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án:

Mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 15/5/2023); các bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 61/2023/HS-ST

Số hiệu:61/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về