Bản án về tội trộm cắp tài sản số 61/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L - TỈNH HOÀ BÌNH

BẢN ÁN 61/2021/HS-ST NGÀY 15/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15/11/2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 58/2021/HSST ngày 01tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:

Bùi Văn Q, sinh ngày 22 tháng 5 năm 1992 tại xã Y, huyện L, tỉnh Hòa Bình; Nơi cư trú: xóm Sống, xã Y, huyện L, tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Văn D, sinh năm 1963 và bà Bùi Thị P, sinh năm 1962; Bị cáo là con thứ hai trong gia đình có hai chị em; Vợ, con: chưa có; Tiền án: không; Tiền sự: Bị cáo có 01 tiền sự: ngày 01/7/2021, bị Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số 19/QĐ-TA ngày 01/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình (Bị cáo chưa chấp hành quyết định nêu trên). Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/8/2021. Có mặt.

- Người bị hại: Anh Nguyễn Viết Th, sinh năm 1985; Trú tại: Phố Lốc Mới, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

- Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Bùi Văn B, sinh năm 1980; Trú tại: phố Lốc Mới, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

+ Chị Bùi Thị Q, sinh năm 1986. Trú tại: xóm Hầu, xã N, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1967. Trú tại: Tổ X, phường Đ, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt theo đơn xin xét xử vắng mặt ngày 01/11/2021. Vắng mặt theo đơn xin xét xử vắng mặt ngày 01/11/2021.

- Người làm chứng:

+ Chị Nguyễn Thị X, sinh năm 1984. Có mặt.

+ Chị Bùi Thị Bình S, sinh năm 1981. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 08 giờ ngày 23/5/2021, Bùi Văn Q, sinh năm 1992, trú tại: xóm Sống, xã Y, huyện L, tỉnh Hòa Bình đi xe khách lên khu vực thị trấn V, huyện L, tỉnh Hòa bình để đi chơi. Khi lên đến khu vực phố Lốc Mới, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hòa Bình, Bùi Văn Q xuống xe ở khu vực cổng Trung tâm Y tế huyện L và ngồi chơi tại khu vực này. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, Bùi Văn Q đi bộ vào ngõ thuộc phố Lốc Mới, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hòa Bình thì phát hiện 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, số loại FUTURE- NEO, màu sơn đỏ-xám-đen, được gắn biển kiểm soát 28S1-X, dựng trong sân của gia đình anh Nguyễn Viết T, sinh năm 1985, trú tại phố Lốc Mới, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hòa Bình, không có người trông coi, trong ổ khóa điện có cắm sẵn chìa khóa, nên Bùi Văn Q đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe mô tô nêu trên. Sau đó, Bùi Văn Q đi vào cổng nhà anh Nguyễn Viết T và dắt chiếc xe mô tô trên đi qua cổng ra đường bê tông khởi động được xe rồi điều khiển xe mô tô trên đi ra quốc lộ 12B và đi lên khu vực thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. Tới đây, Bùi Văn Q gặp Nguyễn Thanh T, sinh năm 1967, trú tại tổ 11, phường Đ, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình là người bán nước ở cổng Bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh Hòa Bình, hỏi vay số tiền 500.000đ và để lại xe mô tô nêu trên cho Nguyễn Thanh T, hẹn chiều sẽ quay lại trả số tiền đã vay và lấy xe. Sau khi vay được tiền của Nguyễn Thanh T, Bùi Văn Q sử dụng toàn bộ số tiền nêu trên để mua ma túy của một người đàn ông không quen biết tại khu vực bến xe thuộc thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình để sử dụng.

Sau khi phát hiện bị mất xe mô tô, hồi 16 giờ ngày 23/5/2021, Nguyễn Viết T đã đến Cơ quan công an để trình báo về sự việc bị mất trộm một xe mô tô nhãn hiệu HONDA, số loại FUTURE-NEO, màu sơn đỏ-xám-đen, được gắn biển kiểm soát 28S1-X.

Ngày 24/5/2021, biết không thể trốn tránh, Bùi Văn Q đã đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện L để đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản là chiếc xe mô tô ngày 23/5/2021 tại phố Lốc Mới, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hòa Bình, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 12/KL-HĐĐGTS ngày 25/06/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, UBND huyện L, tỉnh Hòa Bình kết luận: Giá trị của chiếc xe mô tô HONDA, số loại FUTURE-NEO, màu sơn đỏ-xám- đen, được gắn biển kiểm soát 28S1-X là 6.500.000đ (Bằng chữ: Sáu triệu năm trăm nghìn đồng).

- Việc thu giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng:

Đối với xe mô tô nhãn hiệu HONDA, số loại FUTURE-NEO, màu sơn đỏ-xám- đen, được gắn biển kiểm soát 28S1-X, số khung RLHJ350X8Y011087, số máy: JC35E-2725290 xác định: Biển số 28S1-X không phải là biển số được cấp cho chiếc xe mô tô nêu trên, đồng thời xác định chiếc xe mô tô này do Công ty HONDA Việt Nam sản xuất năm 2007, đã xuất bán cho Công ty TNHH xe may Tân Văn S, địa chỉ: số 469, Hùng Vương, phường An Lạc, thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk vào tháng 01/2008 nhưng hiện nay Công ty TNHH Tân Văn S không còn lưu giữ thông tin về khách hàng đã mua xe mô tô nêu trên; Qua tra cứu thấy chiếc xe mô tô nêu trên không có thông tin trong hệ thống quản lý phương tiện giao thông và hệ thống quản lý, truy tìm xe mô tô vật chứng do cơ quan công an quản lý; biển kiểm soát 28S1- X được Công an huyện L cấp cho chiếc xe ESPERO loại Win 100 mang tên chị Bùi Thị Quyền, sinh năm 1986, trú tại xã N, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Ngoài ra, Nguyễn Viết T không cung cấp được Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô và giấy tờ chứng minh nguồn gốc xe mô tô trên.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra anh Nguyễn Viết T đề nghị được nhận lại chiếc xe mô tô bị mất, ngoài ra không có yêu cầu, đề nghị gì về mặt dân sự.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là Nguyễn Thanh T đã nhận được 500.000đ số tiền mà bị cáo Quân vay nên không có yêu cầu gì về mặt dân sự.

Tại Cơ quan điều tra, Bùi Văn Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của người bị hại và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập được.

Tại bản cáo trạng số: 56/CT-VKS ngày 01/10/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện L đã quyết định truy tố bị cáo Bùi Văn Q về tội: "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi vị đại diện Viện Kiểm sát công bố bản luận tội. Nội dung bản luận tội đã phân tích tính chất, mức độ, nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo và khẳng định cáo trạng truy tố bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS xử phạt Bùi Văn Q từ 15 đến 18 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 173 BLHS đối với bị cáo do không có tính khả thi.

Vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Đối với xe mô tô nhãn hiệu HONDA, số loại FUTURE-NEO, màu sơn đỏ-xám-đen, được gắn biển kiểm soát 28S1-X, số khung RLHJ350X8Y011087, số máy: JC35E-2725290 đề nghị tiếp tục giao Cơ quan Công an huyện L xử lý theo quy định Về trách nhiệm dân sự: Không đề cập giải quyết.

Tại phiên tòa người bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố, nội dung bản luận tội của Viện kiểm sát đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo không tranh luận gì với bản luận tội của Viện Kiểm sát. Bị cáo không có lời nói sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện L, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Đối với người tham gia tố tụng là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do vậy, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các tài liệu chứng cứ được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án nên đã có đủ cơ sở khẳng định: Vào khoảng 10 giờ 00 phút ngày 23/5/2021, Bùi Văn Q lợi dụng sơ hở chủ quan của bị hại, đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 chiếc mô tô nhãn hiệu HONDA, số loại FUTURE- NEO, màu sơn đỏ-xám-đen, được gắn biển kiểm soát 28S1-X có trị giá 6.500.000đ. Bùi Văn Q là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý nên hành vi của Bùi Văn Q phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện L truy tố bị cáo Bùi Văn Q về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an trên địa bàn, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Hành vi của bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật, không những gây thiệt hại về tài sản mà còn gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy bị cáo phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về hậu quả do hành vi của mình gây ra.

[4]. Về nhân thân: Bị cáo có 01 tiền sự: ngày 01/7/2021, bị Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số 19/QĐ-TA ngày 01/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình (Bị cáo chưa chấp hành quyết định nêu trên).

[5]. Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Xét về nhân thân bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, sinh ra và lớn lên làm ăn tại địa phương, có nơi cư trú rõ ràng, bị cáo không chịu tu dưỡng đạo đức, rèn luyện bản thân, để thỏa mãn nhu cầu cá nhân nên đã bất chấp pháp luật, đi vào con đường phạm tội. Tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; Bị cáo đã bồi thường dân sự cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, bị cáo là người dân tộc thiểu số; gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo; bị cáo ra đầu thú, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

[6]. Về mức hình phạt: HĐXX xét thấy bị cáo có nhân thân xấu (nghiện ma túy) nên cần phải áp dụng một hình phạt tương ứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để dăn đe giáo dục đối với bị cáo. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo như đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa mới đủ tác dụng cải tạo bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[7]. Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8]. Trong vụ án này, ông Nguyễn Thanh T là người cho bị cáo gửi lại xe và vay số tiền 500.000đ. Xét thấy, Nguyễn Thanh T không biết rõ chiếc xe mô tô Bùi Văn Q để lại khi vay tiền là do phạm tội mà có. Sau khi không thấy Bùi Văn Q quay trở lại lấy xe, Nguyễn Thanh T đã đến công an phường Quỳnh Lâm, thành phố Hoà Bình, tỉnh Hoà Bình để trình báo sự việc và tự nguyện giao nộp lại chiếc xe mô tô cho Cơ quan điều tra nên Công an huyện L không có hình thức xử lý là có căn cứ.

[9]. Đối với người đàn ông đã bán ma tuý cho Bùi Văn Q tại thành phố Hoà Bình, tỉnh Hoà Bình vào ngày 23/5/2021, do không có tên, tuổi, địa chỉ và đặc điểm nhận dạng tại phiên tòa bị cáo không khai báo gì thêm nên chưa có căn cứ để xác minh, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[10]. Về trách nhiệm dân sự:

Người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi thường gì về mặt dân sự nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[11]. Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 (một) chiếc mô tô nhãn hiệu HONDA, số loại FUTURE-NEO, màu sơn đỏ-xám-đen, được gắn biển kiểm soát 28S1-X, do trong quá trình điều tra và tại phiên tòa ánh Nguyễn Viết T không cung cấp được giấy tờ chứng mình quyền sở hữu hợp pháp nên HĐXX chưa có căn cứ giải quyết, do đó cần tiếp tục giao Cơ quan Công an huyện L xử lý theo quy định.

[12]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[13]. Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

1. Về tội danh: tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: xử phạt bị cáo Bùi Văn Q 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/8/2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về dân sự: Không đặt ra giải quyết.

4. Về vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tiếp tục giao Công an huyện L, tỉnh Hòa Bình 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA, số loại FUTURE-NEO, màu sơn đỏ-xám-đen, được gắn biển kiểm soát 28S1-X để xử lý theo quy định.

4. Án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội khóa 14 quy định về án phí, lệ phí tòa án buộc bị cáo Bùi Văn Q phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo:

Áp dụng Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo, người bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 61/2021/HS-ST

Số hiệu:61/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về