Bản án về tội trộm cắp tài sản số 61/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM TÂN, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 61/2021/HS-ST NGÀY 25/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 11 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 60/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Hồ Thanh T; Sinh năm 1993, tại Bình Thuận Nơi ĐKHKTT: Thôn Hàm Th, xã Tân Th, Hàm T, Bình Thuận Chỗ ở hiện nay: Thôn Hàm Th, xã Tân Th, Hàm T, Bình Thuận Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 5/12 Con ông Hồ Văn B, sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị O, sinh năm 1965;

Vợ, con: Chưa có Tiền án: Không.

Tiền sự: Bị Công an huyện Hàm T xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” (Tại Quyết định số 21/QĐ-XPHC ngày 12/3/2021). Hiện bị cáo chưa chấp hành nộp phạt.

Bị cáo Hồ Thanh T bị tạm giữ từ ngày 03/5/2021, đến ngày 12/5/2021 thì được cho tại ngoại. Hiện bị cáo T đang bị áp dụng biện ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa

* Bị hại: Bà Nguyễn Thị Thanh Ph, sinh năm 1986. (Vắng mặt) Nơi cư trú: Ấp Khu 1, xã Bình Ch, huyện Xuyên M, tỉnh Bà R-Vũng T.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án : Ông Vũ Viết L, sinh năm 1985 (có mặt).

Nơi cư trú: Ấp TB, xã Bình Ch, huyện Xuyên M, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trưa ngày 02/5/2021, Hồ Thanh T điều khiển xe mô tô biển số 79L2-4317 chạy dọc theo đường Quốc lộ 55 nhằm mục đích tìm tài sản của người dân nào để sơ hở thì trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài. Khoảng 14 giờ cùng ngày, khi đến trước nhà anh Nguyễn Công U thuộc thôn Bàu G, xã Thắng H, huyện Hàm T, Tuấn thấy chị Nguyễn Thị Thanh Ph đang nằm ngủ trên võng trong quán nước trước nhà anh U, xung quanh không có ai nên T dựng xe mô tô 79L2-4317 ở lề đường rồi đi vào quan sát thấy trên võng nơi chị U đang ngủ có để 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS 64GB Gold, T lén lút lấy điện thoại này rồi đi ra điều khiển xe mô tô 79L2-4317 chạy đến cửa hàng điện thoại Tiến L ở ấp Thanh Bình 3, xã Bình Ch, huyện Xuyên M, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cầm cố cho anh Vũ Viết L (chủ cửa hàng điện thoại Tiến L) với số tiền 1.800.000 đồng. Sau đó, Tuấn dùng toàn bộ số tiền trên tiêu xài cá nhân và trả nợ cho chị ruột là Hồ Thị Thùy L 1.000.000 đồng, quá trình điều tra, chị L đã giao nộp lại số tiền này.

Theo bản Kết luận định giá tài sản số 25/KL-HĐĐGTS ngày 11/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Hàm T xác định thì điện thoại di động hiệu Iphone XS 64GB Gold tại thời điểm bị Hồ Thanh T chiếm đoạt có giá trị 7.833.000 đồng.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS 64GB Gold. Cơ quan CSĐT Công an huyện Hàm T đã trả lại cho bị hại Nguyễn Thị Thanh Ph.

- 01 xe mô tô biển số 79L2-4317, nhãn hiệu Penman, màu đen cùng giấy đăng ký xe và số tiền 1.000.000 đồng. Cơ quan CSĐT Công an huyện Hàm T đã chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm T quản lý, chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 64/CT-VKS ngày 19/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân truy tố bị cáo Hồ Thanh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Hồ Thanh T như nội dung cáo trạng nêu và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Hồ Thanh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng : Khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Hồ Thanh T mức án từ 12 tháng đến 18 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự : Áp dụng điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 580, Điều 584, 585 và Điều 589 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo Hồ Thanh T trả cho ông Vũ Viết L số tiền 1.800.000 đồng (một triệu tám trăm ngàn đồng).

Về xử lý vật chứng : Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô biển số 79L2-4317, nhãn hiệu Penman, màu đen cùng giấy đăng ký xe.

+ Tiếp tục tạm giữ số tiền 1.000.000 đồng để đảm bảo cho việc thi hành án.

- Tại phiên tòa, bị cáo Hồ Thanh T khai nhận như đã khai tại cơ quan điều tra và thừa nhận cáo trạng của VKSND huyện Hàm T truy tố là hoàn toàn đúng với các hành vi mà bị cáo đã thực hiện.

- Bị cáo Hồ Thanh T không có ý kiến cũng như tranh luận gì đối với quan điểm của đại diện VKSND huyện Hàm T.

* Bị cáo Hồ Thanh T nói lời sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của mình là sai, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố vụ án, Cơ quan điều tra Công an huyện Hàm T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm T, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, bị hại chị Nguyễn Thị Thanh Ph vắng mặt. Ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo có mặt tại phiên tòa là đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt. Xét thấy, việc vắng mặt bị hại không gây trở ngại cho việc xét xử, vì lời khai của họ đã khai đầy đủ thể hiện rõ trong hồ sơ vụ án, vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án là phù hợp với quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về nội dung vụ án :

[2.1] Về định tội và hình phạt : Tại Toà, bị cáo Hồ Thanh T thừa nhận hành vi phạm tội đúng như cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân đã truy tố. Xét, lời khai của bị cáo tại Tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án cùng các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, đủ căn cứ khẳng định:

Khoảng 14 giờ ngày 02/5/2021, tại quán nước trước nhà anh Nguyễn Công U thuộc thôn Bàu G, xã Thắng H, huyện Hàm T, bị cáo Hồ Thanh T đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị Thanh Ph 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS 64GB Gold trị giá 7.833.000 đồng. Sau đó, Tuấn đem cầm cố cho ông Vũ Viết L với giá 1.800.000 đồng rồi tiêu xài cá nhân và trả nợ.

Hành vi phạm tội của bị cáo Hồ Thanh T đủ yếu cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm T truy tố bị cáo Hồ Thanh T về tội danh, điều luật áp dụng là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2.2] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Mặc dù bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, bị nghiêm cấm, nhưng với bản tính tham lam, chây lười lao động, nên bị cáo đã lợi dụng sự mất cảnh giác trong việc quản lý tài sản của chủ sở hữu để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, nhằm mục đích tư lợi cá nhân.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự xem thường pháp luật, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương, tạo tâm lý mất an toàn trong quần chúng nhân dân. Do đó, để giữ gìn kỷ cương pháp luật, bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân, cần xử lý nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khởi đời sống xã hội một thời gian, để răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

Đối với hành vi của Vũ Viết L, do không biết điện thoại di động hiệu Iphone XS 64GB Gold mà bị cáo Hồ Thanh T đã cầm cố cho mình là do phạm tội mà có nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Hàm T không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Vũ Viết L là đúng pháp luật.

[2.3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không [2.4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hồ Thanh T phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Quá trình điều tra, Tuấn thành khẩn khai báo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bị hại chị Nguyễn Thị Thanh Ph đã nhận lại tài sản bị cáo chiếm đoạt và không có yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm phần dân sự nên Hội đồng xét xử không xét.

Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Vũ Viết L yêu cầu bị cáo Hồ Thanh T trả lại số tiền 1.800.000 đồng mà bị cáo nhận được từ việc cầm chiếc điện thoại do trộm cắp mà có. Đây là yêu cầu phù hợp với quy định pháp luật, vì vậy cần buộc bị cáo Hồ Thanh T trả cho ông Vũ Viết L số tiền 1.800.000 đồng (một triệu tám trăm ngàn đồng).

[5] : Về xử lý vật chứng : Trả cho bị cáo Hồ Thanh T 01 xe mô tô biển số 79L2-4317, nhãn hiệu Penman, màu đen cùng giấy đăng ký xe. Tiếp tục tạm giữ số tiền 1.000.000 đồng để đảm bảo cho việc thi hành án.

[4] Về án phí: Bị cáo Hồ Thanh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: Bị cáo Hồ Thanh T phạm tội: "Trộm cắp tài sản".

Áp dụng : Khoản 1 Điều 173; Điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Hồ Thanh T 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 03/5/2021 đến ngày 12/5/2021.

[2] Về trách nhiệm dân sự : Áp dụng điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 580, Điều 584, 585 và Điều 589 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo Hồ Thanh T trả cho ông Vũ Viết L số tiền 1.800.000 đồng (một triệu tám trăm ngàn đồng).

Kể từ ngày ông Vũ Viết L có đơn yêu cầu thi hành án mà bị cáo không thi hành hoặc thi hành không đầy đủ số tiền bị cáo có nghĩa vụ bồi thường, thì phải chịu trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ Luật dân sự.

[3] Về xử lý vật chứng : Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự :

- Trả cho bị cáo Hồ Thanh T 01 xe mô tô biển số 79L2-4317, nhãn hiệu Penman, màu đen cùng giấy đăng ký xe mô tô 79L2-4317 số 0012642.

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 1.000.000 đồng (một triệu đồng) để đảm bảo cho việc thi hành án.

Các vật chứng trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án huyện Hàm T, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/10/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm T với Chi cục thi hành án dân sự huyện Hàm T và biên lai thu tiền số 0004530 ngày 26/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm T.

[4] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Buộc bị cáo Hồ Thanh T phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo : Áp dung Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 61/2021/HS-ST

Số hiệu:61/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Tân - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:25/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về