Bản án về tội trộm cắp tài sản số 61/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 61/2021/HSST NGÀY 19/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 37/2021/HSST ngày 06 tháng 4 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 83/2021/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Phạm Văn L; Sinh ngày 24 tháng 03 năm 1994; tại B.T; Nơi cư trú: khu phố 15, phường M.N, thành phố P; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn :02/12; Nghề nghiệp: Không; Cha: ông Phạm Văn L: Sinh năm: 1965; Mẹ: bà Lê Thị T: Sinh năm: 1962; Cùng trú tại: Khu phố 15, phường M.N, thành phố P; Anh chị em ruột: có 03 người , bị can là con thứ ba trong gia đình; Vợ: Trần Thị Đ: Sinh năm: 1997 (chưa đăng ký kết hôn); Con: Trần Văn V, Sinh năm: 2015; Cùng trú tại: Khu phố 15, phường M.N, thành phố P; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Không; Phạm Văn L bị bắt truy nã vào ngày 23/01/2021, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố P.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

1. Anh Lê Tấn P, sinh năm: 1979 (vắng mặt) Trú tại: khu phố 4, phường M.N, thành phố P, tỉnh B.T

2. Chị Lê Vũ Thu T, sinh năm: 2002.

Trú tại: khu phố 14, phường M.N, thành phố P, tỉnh B.T Chị T có đơn xin xét xử vắng mặt

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Phạm Văn T.1, sinh năm: 1988 Trú tại: khu phố 15, phường M.N, thành phố P, tỉnh B.T. Anh T.1 có đơn xin xét xử vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo cáo trạng, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ ngày 21/11/2019 đến ngày 20/6/2020, Phạm Văn L đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố P như sau:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 7 giờ ngày 21/11/2019, Phạm Văn L đi bộ đến tiệm điện thoại N.A, thuộc khu phố 4, phường M.N, thành phố P do anh Lê Tấn P làm chủ. Tại đây, L gặp chị Lê Thị H là nhân viên bán hàng đang đứng trong quầy tủ điện thoại và yêu cầu chị H lấy dây sạc và điện thoại di động hiệu Oppo A9 cho L xem. Chị H lấy chiếc điện thoại di động hiệu Oppo A9 và dây sạc điện thoại cho L. Sau khi xem điện thoại xong thì L đưa điện thoại và dây sạc cho chị H và nói không mua, chị H cất điện thoại và dây sạc vào trong tủ nhưng không khóa tủ lại. Lúc này, khách đến hỏi mua điện thoại thấy chị H quay lưng lại tiếp khách. Lợi dụng chị H sơ hở, L đã lén lút đưa tay vào trong tủ lấy chiếc điện thoại di động hiệu Oppo A9 màu xanh và đi ra ngoài. Sau khi trộm cắp được chiếc điện thoại, L đến gặp Tuấn (chưa rõ nhân thân) nhờ Tuấn mang cầm thế giùm. Tuấn đồng ý và mang đi cầm thế với giá 3.500.000 đồng (chưa xác định được Tuấn cầm thế ở đâu) và đưa tiền cho L. L đưa lại Tuấn số tiền 250.000 đồng, còn lại L tiêu xài cá nhân hết.

Đến khoảng 09 giờ ngày 23/11/2019, anh Lê Tấn P phát hiện chiếc điện thoại Oppo A9 màu xanh của mình bị mất nên đã xem lại Camera và phát hiện L là người thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Anh P đã đến Công an phường M.N trình báo sự việc nêu trên. Tại Công an phường, L đã thừa nhận hành vi trộm cắp của mình.

Vật chứng vụ án:

- 01 USB màu xanh dung lượng 300GB, bên trong có chứa đoạn video quay lại hình ảnh Phạm Văn L trộm cắp tài sản tại tiệm điện thoại N.A vào ngày 21/11/20219) và 01 hóa đơn bán lẻ điện thoại di động (do anh Lê Tấn P giao nộp).

- Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Oppo A9 màu xanh , Cơ quan điều tra không thu hồi được.

Tại Kết luận định giá tài sản số 132/KL-HDĐG ngày 19/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố P kết luận: 01 chiếc điện thoại Oppo A9 màu xanh. Trị giá 6.990.000 đồng.

Xử lý vật chứng và dân sự:

Bà Lê Thị Trà là mẹ của Phạm Văn L đã bồi thường số tiền 6.990.000 đồng cho anh Lê Tấn P. Anh P đã nhận lại số tiền nêu trên và không yêu cầu bồi thường dân sự gì thêm.

Đối với 01 USB màu xanh dung lượng 300GB, bên trong có chứa đoạn video quay lại hình ảnh Phạm Văn L trộm cắp tài sản tại tiệm điện thoại N.A vào ngày 21/11/20219 và 01 hóa đơn bán lẻ điện thoại di động được lưu theo hồ sơ vụ án để phục vụ xét xử.

Vụ thứ hai: Vào khoảng 18 giờ, ngày 20/6/2020, Phạm Văn L điều khiển xe mô tô biển số 86K9 – 5891 đến quán nhậu M.C, tại khu phố14, phường M.N, thành phố P do anh Nguyễn Văn T.2 làm chủ. Khi vào quán, L gọi món và bia nhậu để chờ bạn tới, trong lúc uống bia thì L đi vệ sinh. Khi đi ngang qua phòng ngủ của quán M.C thì L phát hiện chiếc điện thoại di động Iphone 6S Plus màu hồng của chị Lê Vũ Thu T, là nhân viên của quán M.C đang để trên bàn cắm sạc không có người trông coi, nên L đã lén lút đi vào và lấy trộm chiếc điện thoại Iphone 6S bỏ vào túi quần và đi ra ngoài. L điều khiển xe mô tô biển số 86K9 – 5891 đến công viên, thuộc khu phố 2, phường M.N, thành phố P và giấu điện thoại dưới gốc cây dương. Sau khi L điều khiển xe mô tô ra khỏi quán M.C thì chị T vào phòng ngủ của quán M.C kiểm tra điện thoại phát hiện chiếc điện thoại bị kẻ gian lấy trộm. Qua kiểm tra camera, chị T phát hiện người thanh niên rời khỏi quán đã lấy trộm điện thoại của T. Khoảng 20 phút sau, L điều khiển xe mô tô biển số 86K9 – 5891 quay lại quán M.C để nhậu. Khi nhìn thấy L, chị T nhận ra L là người lấy điện thoại của mình nên hô hoán và cùng những người có mặt tại quán giữ L lại. Lúc này, L thừa nhận hành vi lấy trộm điện thoại của chị T, L để lại chiếc xe mô tô biển số số 86K9 – 5891 tại quán rồi đi đến nơi cất giấu lấy chiếc điện thoại để trả lại cho chị T. Ngay sau đó, chị T đến Công an phường M.N trình báo sự việc nêu trên. Công an phường M.N đưa L về trụ sở làm việc, tại đây L thừa nhận hành vi của mình.

Vật chứng vụ án:

- 01 chiếc điện thoại Iphone 6s Plus màu hồng, số Imei:355734074448833 do L giao nộp.

- 01 chiếc xe mô tô biển số 86K9 – 5891, số máy VPGZS150FMCT, do chị Vũ Thị Thu Nguyệt, sinh năm 1980, khu phố 14, phường M.N, thành phố P, tỉnh B.T, là mẹ của T giao nộp.

- 01 USB màu đen hiệu Data Traveles dung lượng 16GB, bên trong có chứa đoạn video quay lại hình ảnh Phạm Văn L trộm cắp tài sản của chị T, do T giao nộp.

Tại Kết luận định giá tài sản số 215KL-HDĐG ngày 10/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố P kết luận: 01 chiếc điện thoại Iphone 6s Plus màu hồng, số Imei:355734074448833. Trị giá: 3.300.000 đồng.

Xử lý vật chứng và dân sự:

Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc điện thoại Iphone 6s Plus cho Lê Vũ Thu T. chị T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì về dân sự.

Đối với xe mô tô biển số 86K9 – 5891 do anh Phạm Văn T.1 làm chủ, việc L sử dụng xe mô tô biển số 86K9 – 5891 đi trộm cắp tài sản anh T.1 không biết nên Cơ quan điều tra trả lại chiếc xe mô tô nêu trên cho anh T.1 là có căn cứ và đúng pháp luật.

Đối với 01 USB màu đen hiệu Data Traveles dung lượng 16GB, bên trong có chứa đoạn video quay lại hình ảnh Phạm Văn L trộm cắp tài sản của chị T được lưu theo hồ sơ vụ án để phục vụ xét xử.

Hành vi nêu trên của bị cáo Phạm Văn L đã bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh B.T truy tố theo bản cáo trạng số 42/CT-VKS ngày 05 tháng 4 năm 2021 về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi theo đúng như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố và thừa nhận do cần có tiền tiêu xài cho cá nhân nên Vào khoảng 07 giờ ngày 21/11/2019, tại tiệm điện thoại N.A, thuộc khu phố 4, phường M.N, thành phố P, Phạm Văn L có hành vi trộm cắp chiếc điện thoại Oppo A9 của anh Lê Tấn P và vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 20/6/2020, tại quán nhậu M.C, thuộc khu phố 14, phường M.N, thành phố P, Phạm Văn L có hành vi lén lút trộm cắp chiếc điện thoại Iphone 6s Plus màu hồng của Lê Vũ Thu T thì bị phát hiện bắt giữ.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của bị cáo và các chứng cứ tại phiên tòa hôm nay đủ cơ sở kết luận, hành vi của bị cáo Phạm Văn L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Văn L mức án từ 09 tháng đến 15 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

Bà Lê Thị Trà là mẹ của Phạm Văn L đã bồi thường số tiền 6.990.000 đồng cho anh Lê Tấn P. Anh P đã nhận lại số tiền nêu trên và không yêu cầu bồi thường dân sự gì thêm.

Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc điện thoại Iphone 6s Plus cho Lê Vũ Thu T. Chị T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì về dân sự.

Đối với xe mô tô biển số 86K9 – 5891 do anh Phạm Văn T.1 làm chủ, việc L sử dụng xe mô tô biển số 86K9 – 5891 đi trộm cắp tài sản anh T.1 không biết nên Cơ quan điều tra trả lại chiếc xe mô tô nêu trên cho anh T.1 là đúng pháp luật.

Đối với 01 USB màu xanh dung lượng 300GB, bên trong có chứa đoạn video quay lại hình ảnh Phạm Văn L trộm cắp tài sản tại tiệm điện thoại N.A vào ngày 21/11/20219 và 01 hóa đơn bán lẻ điện thoại di động được lưu theo hồ sơ vụ án để phục vụ xét xử.

Đối với 01 USB màu đen hiệu Data Traveles dung lượng 16GB, bên trong có chứa đoạn video quay lại hình ảnh Phạm Văn L trộm cắp tài sản của chị T được lưu theo hồ sơ vụ án để phục vụ xét xử.

Nói lời sau cùng: Bị cáo xác định cáo trạng truy tố là đúng không oan, bị cáo không tranh luận gì, thống nhất với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố P, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sựQuá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo và xuất trình các chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan T.1 hành tố tụng, người T.1 hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan T.1 hành tố tụng, người T.1 hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu, bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố là đúng, không oan. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án nên đủ cơ sở kết luận:

Do cần tiền tiêu xài cho cá nhân nên trong khoảng thời gian từ ngày 21/11/2019 đến ngày 20/6/2020, Phạm Văn L đã thực hiện hai vụ “Trộm cắp tài sản” với tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 10.290.000 đồng trên địa bàn thành phố P, cụ thể:

- Vào khoảng 07 giờ 00 phút, ngày 21/11/2019, tại tiệm điện thoại N.A, Phạm Văn L có hành vi trộm cắp chiếc điện thoại Oppo A9 trị giá 6.990.000 đồng của anh Lê Tấn P.

- Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 20/6/2020, tại quán nhậu M.C, Phạm Văn L tiếp tục trộm cắp chiếc điện thoại Iphone 6s Plus màu hồng trị giá 3.300.000 đồng của chị Lê Vũ Thu T.

Hành vi phạm tội bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, ngoài ra còn làm ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an trên địa bàn, gây lo lắng cho quần chúng nhân dân, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Do vậy, cáo trạng truy tố bị cáo Phạm Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng quy định pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Phạm Văn L đã hai lần thực hiện hành vi “trộm cắp tài sản” mà mỗi lẫn đều cấu thành tội phạm nên thuộc trường hợp “phạm tội 02 lần trở lên” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại, sau khi bị phát hiện đã trả lại điện thoại cho bị hại để khắc phục hậu quả, có cha là ông Phạm Văn La, là người có công với cách mạng, khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt và được người bị hại xin giảm nhẹ hành phạt nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có xem xét đến nhân thân của các bị cáo, xét thấy cần phải xử lý và áp dụng hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới, đồng thời giáo dục những người khác tôn trọng pháp luật và đấu tranh chống tội phạm.

[4] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Bà Lê Thị Trà là mẹ của Phạm Văn L đã bồi thường số tiền 6.990.000 đồng cho anh Lê Tấn P. Anh P đã nhận lại số tiền nêu trên và không yêu cầu bồi thường dân sự gì thêm.

Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc điện thoại Iphone 6s Plus cho chị Lê Vũ Thu T.

chị T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì về dân sự.

Đối với xe mô tô biển số 86K9 – 5891 do anh Phạm Văn T.1 làm chủ, việc L sử dụng xe mô tô biển số 86K9 – 5891 đi trộm cắp tài sản anh T.1 không biết nên Cơ quan điều tra trả lại chiếc xe mô tô nêu trên cho anh T.1 là đúng pháp luật.

Đối với 01 USB màu xanh dung lượng 300GB, bên trong có chứa đoạn video quay lại hình ảnh Phạm Văn L trộm cắp tài sản tại tiệm điện thoại N.A vào ngày 21/11/20219 và 01 hóa đơn bán lẻ điện thoại di động được lưu theo hồ sơ vụ án để phục vụ xét xử.

Đối với 01 USB màu đen hiệu Data Traveles dung lượng 16GB, bên trong có chứa đoạn video quay lại hình ảnh Phạm Văn L trộm cắp tài sản của chị T được lưu theo hồ sơ vụ án để phục vụ xét xử.

[5] Về mức hình phạt: Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, giữ quyền công tố đã luận tội và tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Văn L mức án từ 09 đến 15 tháng tù.

Mức hình phạt và điều luật áp dụng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P là phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo.

[6] Về đối tượng có liên quan: Đối với đối tượng tên Tuấn (chưa rõ nhân thân) mà L nhờ mang cầm thế điện thoại di động nhưng không xác định được nhân thân nên không có cơ sở để xác minh xử lý.

[7] Bị cáo phải nộp tiền án phí và những người tham gia tố tụng được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố bị cáo Phạm Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn L 12 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/01/2021.

2/ Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo L phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3/ Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (19/5/2021). Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kề từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

437
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 61/2021/HSST

Số hiệu:61/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:19/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về