TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 60/2023/HS-ST NGÀY 16/03/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 16/3/2023, tại Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 40/2023/TLST-HS ngày 16/02/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2023/QĐXXST-HS ngày 03/3/2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Hoàng Trung H - Sinh ngày: 23/5/2000, tại tỉnh Đắk Nông.
Nơi thường trú: Buôn T, xã Đ, huyện C, tỉnh Đắk Nông.
Nơi ở hiện tại: Thôn T, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Nông.
Giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; họ và tên cha: Hoàng Quốc T, sinh năm: 1962; họ và tên mẹ: Phạm Thị D, sinh năm: 1964; bị cáo chưa có vợ con.
Tiền sự: Không Tiền án: 01 tiền án: Ngày 14/6/2019, bị TAND huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông tuyên phạt 02 năm 06 tháng tù giam về tội Trốn khỏi nơi giam (tại Bản án số 24/2019/HSST). Tổng hợp hình phạt còn lại chưa chấp hành 08 tháng 17 ngày tù tại Bản án số 40/2018/HSST ngày 26/10/2018 của TAND huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông buộc chấp hành án là 03 năm 02 tháng 17 ngày tù giam. Chấp hành án tại trại giam Đắk P’lao. Ngày 15/3/2022 chấp hành xong hình phạt tù.
Nhân thân: Ngày 26/10/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông tuyên phạt 01 năm 03 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản (tại Bản án số 40/2018/HSST), chấp hành án tại Trại giam Đắk P’lao, thuộc huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông.
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột từ ngày 22/12/2022 đến nay, hiện có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Ông Kiều Duy S, sinh năm 1974, nơi cư trú: Số P, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị N - Sinh năm: 1984, nơi cư trú: Hẻm T, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng đầu tháng 12/2022, Hoàng Trung H được ông Kiều Duy S, sinh năm 1974, nơi cư trú: Số C, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk nhận vào làm thợ hồ công trình xây dựng và ở cùng với ông S. Đến khoảng 20 giờ ngày 09/12/2022, H đang ở nhà ông S thì thấy ông S để chùm chìa khóa gồm: 01 chìa khóa cổng của nhà và 01 khóa điện tử của chiếc xe mô tô biển số 47B2-278.aa, nhãn hiệu Honda SH Mode, màu đỏ đen, số máy JF51E0866532, số khung 5141GZ027473 trên kệ do có ý định trộm cắp chiếc xe mô tô nên H đã cất giấu chùm chìa khóa bỏ vào trong túi đồ của H. Vào ngày 16/12/2022, H xin nghỉ việc và không làm việc cho ông S nữa. Đến khoảng 08 giờ 30 phút ngày 20/12/2022, biết nhà ông S trong khoảng thời gian này đều đi làm không có người ở nhà, nên H mang theo chùm chìa khóa trên đi bộ một mình đến nhà ông S tại địa chỉ Số C, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk thì thấy cửa cổng khóa bằng ổ khóa ngoài, khu vực sân phía trước cửa nhà có để 01 chiếc xe mô tô biển số 47B2-278.aa, không có người trông coi nên H lấy chìa khóa mở cổng nhà ra rồi đi vào bên trong lén lút dùng khóa điện tử để khởi động xe mô tô biển số 47B2-278.aa, điều khiển xe mô tô trên cầm theo ổ khóa cổng rồi tẩu thoát theo hướng đường P đi về hướng xã L. Khi đi đến khu vực Cầu số Đ, H vứt bỏ chiếc ổ khóa cổng có gắn chìa khóa vào bãi đất trống bên đường (không xác định địa điểm cụ thể). Khoảng 20 giờ ngày 21/12/2022, H điều khiển chiếc xe mô tô vừa chiếm đoạt trên đến nhà gửi xe của Bệnh viện Đ, do chị Lê Thị N, sinh năm 1984, nơi cư trú: Hẻm B, tỉnh Đắk Lắk đang quản lý, gửi chiếc xe mô tô 47B2-278.aa để cất giấu tìm nơi tiêu thụ. Ngày 22/12/2022, Cơ quan điều tra đã triệu tập H về làm việc đồng thời H tự nguyện khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và tự nguyện giao nộp chiếc xe mô tô 47B2-278.aa là vật chứng vụ án.
Tại Bản kết luận số 01 ngày 01 tháng 01 năm 2023, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận: 01 (Một) Chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda SH Mode, màu đỏ đen, biển số 47B2 – 278.aa, số máy JF51E0866532, số khung 5141GZ027473, đã qua sử dụng, trị giá:
44.000.000đồng.
Tại Bản kết luận số 10 ngày 01 tháng 02 năm 2023, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B, kết luận: 01 (Một) ổ khóa màu vàng, không rõ nhãn hiệu, đã qua sử dụng, không định giá.
Tại Cáo trạng số 62/CT-VKS ngày 15/02/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Hoàng Trung H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và đúng theo nội dung Cáo trạng mà đại diện Viện kiểm sát đã công bố.
Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự:
- Xử phạt bị cáo Hoàng Trung H từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.
- Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Đối với chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda SH Mode, màu đỏ đen, biển số 47B2 – 278.aa, số máy JF51E0866532, số khung 5141GZ027473, đã qua sử dụng tạm giữ từ bị cáo Hoàng Trung H. Quá trình điều tra xác định tài sản trên thuộc quyền sở hữu của ông Kiều Duy S. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột xử lý vật chứng trao trả chiếc xe mô tô 47B2 – 278.aa cho ông S quản lý và sử dụng.
Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart Joy 1, màu đen, số Imei:
352859103318187, đã qua sử dụng là tài sản thuộc quyền sở hữu của bị cáo H không dùng vào việc phạm tội, tuy nhiên tiếp tục giữ để đảm bảo công tác thi hành án.
Các vấn đề khác đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận như nội dung tại bản Cáo trạng.
Bị cáo không tranh luận nội dung gì, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Trung H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với các tình tiết như bản cáo trạng đã truy tố, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án về thời gian địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội và tài sản đã chiếm đoạt. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định: Vào ngày 20/12/2022, tại địa chỉ: Số P, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, bị cáo Hoàng Trung H đã trộm cắp 01 (Một) Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH Mode, màu đỏ đen, biển số 47B2 – 278.aa với giá trị 44.000.000 đồng. Do đó Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Hoàng Trung H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật. Cụ thể:
Điều 173 Bộ luật hình sự quy định như sau:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức rõ hành vi lén lút chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị trừng trị nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi và muốn có tiền tiêu xài nên đã cố ý phạm tội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét, cân nhắc và áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả phạm tội đã thực hiện, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Hoàng Trung H phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Tái phạm, quy định tại điểm điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Từ những nhận định trên, HĐXX xét thấy bị cáo là người có nhân thân xấu, tuy nhiên bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt nghiêm minh, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một khoảng thời gian mới có đủ điều kiện và thời gian cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.
[5] Các biện pháp tư pháp:
- Về xử lý vật chứng:
Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột xử lý vật chứng trao trả chiếc xe mô tô 47B2 – 278.aa cho ông S quản lý và sử dụng.
Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart Joy 1, màu đen, số Imei: 352859103318187, đã qua sử dụng là tài sản thuộc quyền sở hữu của bị cáo H không dùng vào việc phạm tội, tuy nhiên tiếp tục giữ để đảm bảo công tác thi hành án.
- Về bồi thường thiệt hại: Sau khi ông Kiều Duy S nhận lại chiếc xe mô tô mô tô 47B2 – 278.aa không yêu cầu gì khác; Đối với ổ khóa màu vàng, không rõ nhãn hiệu, sau khi thực hiện hành vi phạm tội, H đã vứt bỏ không xác định được vị trí nên Cơ quan điều tra chưa phát hiện để tạm giữ. Ông S không yêu cầu bị cáo H bồi thường giá trị chiếc ổ khóa có đặc điểm nêu trên.
[6] Các vấn đề khác:
Đối với chị Lê Thị N là nhân viên quản lý nhà gửi xe của Bệnh viện Đa khoa T, không biết nguồn gốc chiếc xe môtô biển số 47B2 – 278.aa mà H gửi do H trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với chị Nhung, là phù hợp.
Đối với ổ khóa màu vàng, không rõ nhãn hiệu, sau khi thực hiện hành vi phạm tội, H đã vứt bỏ không xác định được vị trí, nên Cơ quan điều tra chưa phát hiện để tạm giữ.
[7] Về án phí: Bị cáo Hoàng Trung H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
- Tuyên bố bị cáo Hoàng Trung H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Xử phạt bị cáo Hoàng Trung H: 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 22/12/2022.
[2] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột xử lý vật chứng trao trả chiếc xe mô tô 47B2 – 278.aa cho ông S quản lý và sử dụng.
Trả lại cho Hoàng Trung H chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart Joy 1, màu đen, số Imei: 352859103318187, nhưng tiếp tục giữ để đảm bảo công tác thi hành án.
(Đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/02/2023 giữa Công an thành phố Buôn Ma Thuột với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B)
[3] Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Hoàng Trung H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[4] Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 60/2023/HS-ST
Số hiệu: | 60/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về