Bản án về tội trộm cắp tài sản số 60/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 60/2022/HS-ST NGÀY 30/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 30 tháng 8 năm 2022 tại Phòng xử A trụ sở Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí M xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 51/2022/TLST-HS ngày 22 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn M T; sinh năm 1999 tại Quảng Trị; nơi đăng ký thường trú: Khu phố Đại A, Phường Đông L, Thành phố Đông Hà, Tỉnh Quảng Trị; tạm trú: 274/10A Trường Ch, Phường 13, Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí M; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá (học vấn): 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L và bà Nguyễn Thị Thanh L; tiền án: Không, tiền sự: Không; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/4/2022; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại:

1/Anh Đỗ Văn M, sinh năm 2002; địa chỉ: 161A/5C Lạc Long Q, phường 3, Quận 11, Thành phố Hồ Chí M (vắng mặt).

2/Chị Nguyễn Thị Thúy V, sinh năm 2001; địa chỉ: 32 Bông S, Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí M (vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ Liên quan:

1/Ông Phan Ngọc Quang Anh V, sinh năm: 1984; địa chỉ: 10B Vạn K, Phường 8, Thành phố Đà Lạt, Tỉnh Lâm Đồng (vắng mặt).

2/Ông Trần Trung Ngh, sinh năm: 1984; địa chỉ: 14 Hà T, Phường Phương Sài, Thành phố Nha Trang, Tỉnh Khánh Hòa (vắng mặt).

3/Bà Nguyễn Thị Thanh L, sinh năm: 1965; địa chỉ: khu phố Đại A, Phường Đông L, Thành phố Đông Hà, Tỉnh Quảng Trị (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào tối ngày 27/3/2022, Nguyễn M T đến phòng trọ anh Đỗ Văn M tại số 161A/5C Lạc Long Q, Phường 3, Quận 11 chơi và ngủ tại đây qua đêm. Đến sáng ngày 28/3/2022, chị Nguyễn Thị Thúy V (bạn anh M) cũng đến phòng trọ của M chơi. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày, T lợi dụng lúc anh M và chị V không để ý đã lén lút, chiếm đoạt 01 laptop nhãn hiệu Dell màu đen, 01 điện thoại Samsung Galaxy S20 FE màu xanh, 01 xe Air Blade biển số 47B2-X của anh M và 01 điện thoại Iphone XS Max màu trắng của chị V rồi bỏ đi. Đến khoảng 08 giờ ngày 04/4/2022, T gọi điện thoại kêu anh M đến nhà số 274/10A Trường Ch, Phường 13, quận Tân Bình để nhận lại xe trên, anh M đến Công an Phường 3, Quận 11 trình báo vụ việc. Nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận 11 ra lệnh bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối Nguyễn M T, thu giữ xe môtô biển số 47B2- X.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11, Nguyễn M T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên. Sau khi chiếm đoạt tài sản, ngày 01/4/2022 T điều khiển xe môtô biển số 47B2-X đến cửa hàng N Computer tại số 2B đường Bến C, phường Phương Sài, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa bán cho anh Trần Trung N (chủ cửa hàng) một Laptop Dell màu đen với giá 1.500.000 đồng. Khi mua, anh Ngh không biết là tài sản do phạm tội mà có, giao nộp lại Laptop trên cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11.

Ngày 02/4/2022, T bán điện thoại Samsung Galaxy S20FE màu xanh cho anh Phan Ngọc Quang Anh V với giá 6.500.000 đồng tại số 158 Nguyễn Công Tr, Phường 8, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Khi mua, anh V không biết là tài sản do phạm tội mà có, anh V đã giao nộp điện thoại trên cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11. Riêng điện thoại Iphone XS Max màu trắng, T bán tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa nhưng không nhớ địa điểm nên không thu hồi được. Sau khi bán tài sản trên, T quay về Thành phố Hồ Chí M thì bị bắt giữ như trên.

Theo bản Kết luận định giá tài sản số 19/ KL-HĐĐGTS ngày 08/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận kết luận: “01 xe môtô hiệu Air blade, biển số: 47B2-X có giá trị là: 38.800.000 đồng; 01 Laptop hiệu Dell màu đen có giá trị là: 3.500.000 đồng; 01 Điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S20 FE màu xanh có giá trị là: 7.200.000 đồng; 01 Điện thoại di động hiệu Iphone XS Max màu trắng có giá trị là: 8.000.000 đồng”. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là: 57.500.000 đồng.

Vật chứng, đồ vật tạm giữ:

+ 01 xe môtô biển số 47B2-X; 01 điện thoại di động Samsung Galaxy S20 FE màu xanh và 01 Laptop nhãn hiệu Dell màu đen thuộc sở hữu của anh Đỗ Văn M. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại các tài sản trên cho anh M.

+ 01 Điện thoại di động Iphone 11 pro màu vàng đồng; 01 Laptop Macbook Air màu trắng xám bạc, Serial CPWPL890G940; 01 Đồng hồ đeo tay hiệu SUNRISE màu trắng bạc; 01 Passport mang tên Nguyễn M T là đồ vật, tài sản cá nhân của bị cáo T không liên quan đến hành vi phạm tội; 2.000.000 đồng là tiền do T bán những tài sản trộm cắp mà có. Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đang tạm giữ .

Về trách nhiệm dân sự: người bị hại anh Đỗ Văn M đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bồi thường. Chị nguyễn Thị Thúy V và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Trần Trung Ngh, anh Phan Ngọc Quang Anh V được gia đình T bồi thường thiệt hại, không yêu cầu gì thêm và có đơn bãi nại cho T.

Bản cáo trạng số 55/CT-VKSQ11 ngày 19 tháng 7 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 truy tố bị cáo Nguyễn M T tội danh “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại điểm c khoản 2, Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo có lời khai phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra và những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

- Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 trình bày lời luận tội, giữ quan điểm như truy tố, nêu các tình tiết giảm nhẹ và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo Nguyễn M T mức án từ 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng đến 02 (Hai) năm tù đồng thời đề nghị hướng xử lý vật chứng, tài sản đã thu giữ:

+ Trả lại 01 điện thoại di động Iphone 11 pro màu vàng đồng; 01 Laptop Macbook Air màu trắng xám bạc, Serial CPWPL890G940; 01 Đồng hồ đeo tay hiệu SUNRISE màu trắng bạc; 01 Passport mang tên Nguyễn M T là đồ vật, tài sản cá nhân của bị cáo T không liên quan đến hành vi phạm tội;

+ Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 2.000.000 đồng là tiền do T bán những tài sản trộm cắp mà có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tung:

Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn M T đã khai nhận hành vi “Trộm cắp tài sản” như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với bản kết luận điều tra của Công an Quận 11, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Quận 11, biên bản ghi lời khai và tang vật thu giữ phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Đối chiếu với các điều luật tương ứng của Bộ luật hình sự quy định, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của bị cáo Nguyễn M T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật và Nhà nước bảo hộ, gây mất trật tự trị an xã hội và tác động xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Lợi dụng lúc người bị hại sơ hở, mất cảnh giác, bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp rất táo bạo, chỉ vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân mà không phải thông qua lao động chân chính, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội bất chấp hậu quả xảy ra và bất chấp cả sự trừng trị của pháp luật.

Do đó, phải có mức hình phạt thật nghiêm khắc, cần thiết cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có đủ điều kiện giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành người tốt hơn, sau này biết tôn trọng tài sản của người khác. Đồng thời cũng nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Xét về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Nguyễn M T có hành vi “Trộm cắp tài sản”, tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị 57.500.000 đồng. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 truy tố bị cáo theo quy định tại điểm c khoản 2, Điều 173 của Bộ luật hình sự là có cơ sở và đúng quy định pháp luật .

Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như bị cáo mới phạm tội lần đầu, chưa có tiền án tiền sự, gia đình bị cáo đã tự nguyện khắc phục hậu quả, người bị hại và người có quyền lợi liên quan đã bãi nại cho bị cáo, tại cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, do đó cần áp dung thêm khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự cho bị cáo hưởng mức án dưới khung hình phạt.

Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử xét tính chất của vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên miễn phạt bổ sung.

Đối với ông Phan Ngọc Quang Anh V mua điện thoại di động và ông Trần Trung Ngh mua laptop của T không biết là tài sản do phạm tội mà có, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 không xử lý.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa hôm nay người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt, nhưng căn cứ vào hồ sơ vụ án xét thấy anh Đỗ Văn M đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, chị Nguyễn Thị Thúy V đã được bồi thường số tiền tương đương tài sản bị chiếm đoạt, ông Phan Ngọc Quang Anh V, ông Trần Trung Ngh đã được bồi thường và không ai có yêu cầu hay thắc mắc khiếu nại gì nên Hội đồng xét xử xét thấy không có gì giải quyết.

- Đối với số tiền bà Nguyễn Thị Thanh L là mẹ bị cáo T đã bỏ ra bồi thường cho người bị hại và người có quyền lợi liên quan bà L không yêu cầu bị cáo T trả lại và đồng ý cho bị cáo số tiền này nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng:

+ Đối với 01 điện thoại di động Iphone 11 pro màu vàng đồng; 01 Laptop Macbook Air màu trắng xám bạc, Serial CPWPL890G940; 01 Đồng hồ đeo tay hiệu SUNRISE màu trắng bạc; 01 Passport mang tên Nguyễn M T là đồ vật, tài sản cá nhân của bị cáo T không liên quan đến hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử xét thấy trả lại cho bị cáo T.

+ Đối với số tiền 2.000.000 đồng là tiền do T bán những tài sản trộm cắp mà có nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn M T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng Điều 50; điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, Điều 54; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt:

Nguyễn M T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 07/4/2022.

Căn cứ vào điểm a,b,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và khoản 1, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

+ Trả lại cho bị cáo Nguyễn M T 01 điện thoại di động Iphone 11 pro màu vàng đồng; 01 Laptop Macbook Air màu trắng xám bạc, Serial CPWPL890G940; 01 Đồng hồ đeo tay hiệu SUNRISE màu trắng bạc; 01 Passport mang tên Nguyễn M T;

+ Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước số tiền 2.000.000 đồng tiền Việt Nam.

+ Tịch thu lưu hồ sơ vụ án: 01 USB lưu trữ hình ảnh camera an ninh ghi lại vụ trộm cắp tài sản của bị cáo T.

(Theo Lệnh nhập kho vật chứng số 29/LNK-ĐCSHS ngày 15/4/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11).

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo phải chịu là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Căn cứ Điều 26 Luật thi hành án dân sự năm 2008.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 60/2022/HS-ST

Số hiệu:60/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về