Bản án về tội trộm cắp tài sản số 60/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 60/2022/HS-PT NGÀY 07/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 72/2022/TLPT-HS ngày 27 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo Lê Thị Mỹ T do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 72/2022/HS-ST ngày 09 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.

Bị cáo có kháng cáo:

Lê Thị Mỹ T (BH), sinh ngày: 12/3/2003, tại Khánh Hòa; giới tính: Nữ; nơi cư trú: Thôn CL 2, xã CH, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 01/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Tấn Đ, sinh năm 1980 và bà Phạm Thị Đ1, sinh năm 1979; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 04/5/2019, Lê Thị Mỹ T đến nhà cô ruột là Lê Thị BT tại 56B đường PC, phường PH, thành phố Nha Trang để chơi. Trong lúc ở nhà chị BT, T quan sát thấy chị BT để một số tài sản trong tủ ở phòng ngủ nên nảy sinh ý định trộm cắp. Đến khoảng 11 giờ 00 phút ngày 05/5/2019, T tiếp tục đến nhà chị BT. Lợi dụng lúc chị BT không có ở trong nhà, T lẻn vào phòng ngủ mở tủ và lấy trộm một số tài sản như sau: 01 dây chuyền vàng, 01 lắc đeo tay bằng vàng, 1 01 nhẫn đeo tay bằng vàng và số tiền 8.000.000 đồng.

Sau khi trộm cắp được số tài sản trên, T mang số trang sức về nhà ở thôn CL 2, xã CH, huyện Cam Lâm cất giấu, còn số tiền 8.000.000 đồng T tiêu xài hết.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm 72/2022/HS-ST ngày 09/3/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91, Điều 101 của Bộ luật Hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo Lê Thị Mỹ T 09 (Chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo, không xem xét về trách nhiệm dân sự, vật chứng.

Ngày 14/3/2022, bị cáo Lê Thị Mỹ T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Bị cáo Lê Thị Mỹ T kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn luật định, nên kháng cáo của bị cáo được cấp phúc thẩm xét xử theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét nội dung kháng cáo của bị cáo thì thấy:

[2.1] Về tội danh: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Thị Mỹ T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện như nội dung bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang nêu. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, do đó Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang xác định: Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 05/5/2019, tại số nhà số 56B đường PC, phường PH, thành phố Nha Trang, Lê Thị Mỹ T đã có hành vi trộm cắp của chị Lê Thị BT gồm: 01 dây chuyền vàng, 01 lắc đeo tay vàng, 01 nhẫn đeo tay vàng có hình con rắn gắn đá màu xanh và 8.000.000 đồng (T ng giá trị tài sản mà Lê Thị Mỹ T đã trộm cắp là 24.381.000 đồng (Hai mươi bốn triệu ba trăm tám mươi mốt nghìn đồng)) và đã xét xử bị cáo Lê Thị Mỹ T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng.

[2.2] Về hình phạt:

Xét thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương, do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức án 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” là phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng xét thấy: Bị cáo chưa có tiền án tiền sự, phạm tội khi chưa thành niên (phạm tội khi 16 tu i 01 tháng 22 ngày), tài sản trộm cắp phần lớn đã thu hồi trả cho bị hại và bị hại không yêu cầu bồi thường phần còn lại; bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nên chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo.

[3] Về án phí: Bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, đã có hiệu lực kể từ ngày hết kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm:

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Lê Thị Mỹ T 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Bị cáo Lê Thị Mỹ T không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 60/2022/HS-PT

Số hiệu:60/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về