Bản án về tội trộm cắp tài sản số 600/2019/HSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 600/2019/HSPT NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 516/2019/TLPT-HS ngày 18 tháng 11 năm 2019, đối với bị cáo Phan Văn H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự số 140/2019/HSST ngày 16/10/2019 của Tòa án nhân dân Quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bùi Anh Đ; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: không; Sinh ngày: 28/01/2000; Tại: Tỉnh Hưng Yên; Nơi thường trú: Đội 5, thôn Tân T, xã Phú C, thành phố Hưng Y, tỉnh Hưng Yên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Nghề nghiệp: Phụ việc nhà; Trình độ học vấn: 9/12; Họ tên cha: Bùi Văn T; Họ tên mẹ: Phan Thị H; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Tạm giam: 27/05/2019 (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1/Vụ thứ 1: Ngày 21 tháng 9 năm 2018, Bùi Anh Đ xin việc tại khách sạn Hoa Hồng, số 194 Phan Văn T, phường X, quận BT và được chị Phạm Thị Tuyết V , là chủ khách sạn, cho vào làm và sắp xếp ở cùng phòng với anh Đào Hải L, người làm cùng của khách sạn. Ngày 22 tháng 9 năm 2018, chị V giao xe mô tô Honda AirBlade biển số 59P2-334.20 cho L để đi ăn trưa. Khi về khách sạn, Đ thấy anh L để chìa khóa xe trên giường nên nảy sinh ý định trộm xe. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, Đ lén lút lấy chìa khóa xe và thấy 01 điện thoại di động hiệu Nokia và 01 dây chuyền bạc. Sau đó, dùng chìa khóa mở máy xe mô tô Honda AirBlade biển số 59P2-334.20 chạy đi. Khi đến đường Huỳnh Tấn Phát, quận 7, Đ vào 01 cửa hàng điện thoại (không rõ địa chỉ) để bán chiếc điện thoại với số tiền 100.000 đồng; sau đó điều khiển xe đến khu công nghiệp Long Hậu, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long an, vào 01 quán cà phê (không rõ địa chỉ) gặp một đối tượng nam (không rõ lai lịch) để bán chiếc xe này với số tiền 6.700.000 đồng và sợi dây chuyền với số tiền 400.000 đồng. Số tiền này Đ đã sử dụng cho cá nhân hết.

2/ Vụ thứ 2: Ngày 08 tháng 5 năm 2019, vào khoảng 12 giờ 30 phút, Đ cùng với anh Phạm Văn C (bạn quen qua mạng xã hội) về chơi tại phòng trọ của anh C, tại số B1, nhà trọ số 10/1/5 đường 26, khu phố 7, phường Linh Đông, quận Thủ Đ. Khi về đến nơi, anh C để xe mô tô trước cửa phòng trọ, treo chìa khóa xe ở cửa số rồi đi tắm. Lợi dụng lúc anh C tắm trong nhà tắm không trông coi được tài sản, Đ ở ngoài một mình thấy ví tiền của anh C trên nền nhà nên Đ đã lấy trộm ví tiền bên trong có số tiền 300.000 đồng. Sau đó, Đ lấy chìa khóa xe và điều khiển xe mô tô biển số 61N7-8522 tẩu thoát. Đến khoảng 15 giờ 00 phút cùng ngày, Đ đến ngã tư 550, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, gặp một đối tượng nam (không rõ lai lịch) và bán chiếc xe với số tiền là 1.500.000 đồng; số tiền bán xe được cùng với số tiền lấy được trong ví của anh C Đ đã tiêu xài cá nhân hết.

Tiến hành định giá tài sản: Theo bản Kết luận định giá tài sản số 237 ngày 02 tháng 11 năm 2018 của Phòng tài chính kế hoạch - Ủy ban nhân dân quận BT, xe Honda AirBlade có giá trị 29.000.000 đồng; theo Bản kết luận định giá tài sản số 1126 ngày 07 tháng 6 năm 2019 của Hội đồng đinh giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân quận Thủ Đ, xe Suzuki Smash có giá trị 5.000.000 đồng; theo bản Kết luận định giá tài sản số 255 ngày 09 tháng 7 năm 2019 Phòng tài chính kế hoạch - Ủy ban nhân dân quận BT, sợi dây chuyền bạc có giá trị 500.000 đồng. Tổng giá trị tài sản Đ chiếm đoạt được trong vụ trộm tại BT là 29.500.000 đồng; tổng giá trị tài sản Đ chiếm đoạt được trong vụ trộm tại Thủ Đ là 5.300.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 140/2019/HSST ngày 16/10/2019 của Tòa án nhân dân Quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Anh Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s, khoản 1, Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 Xử phạt bị cáo Bùi Anh Đ 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/5/2019.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 31/10/2019, bị cáo Bùi Anh Đ kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trình bày:

Sau khi xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ buộc tội và các tình tiết khác có trong hồ sơ vụ án, cũng như lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với nhau, phù hợp với các biên bản hoạt động điều tra, có đủ cơ sở xác định bị cáo Bùi Anh Đ đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người bị hại, tổng trị giá 34.800.000 đồng. Ngoài ra bị cáo phạm tội thuộc trường hợp: “phạm tội 02 lần trở lên” là tình tiết tăng nặng được quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo 02 năm tù về tội « Trộm cắp tài sản » theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 là có căn cứ, thỏa đáng, đã xem xét chiếu cố một phần hình phạt cho bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo nói lời sau cùng: Mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hình thức: Sau khi xét xử sơ thẩm Ngày31/10/2019, bị cáo Bùi Anh Đ kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt. Xét kháng cáo được làm trong thời hạn luật định là hợp lệ, cần chấp nhận để xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án, căn cứ kết quả xét hỏi và tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm cũng như phiên tòa phúc thẩm có đủ cơ sở để xác định:

Vào lúc 14 giờ ngày 21 tháng 9 năm 2018, bị cáo Bùi Anh Đ lén lút lấy 01 xe gắn máy Honda AirBlade biển số 59P2-334.20, 01 điện thoại di động hiệu Nokia và 01 dây chuyền bạc của chị Phạm Thị Thanh V . Đến ngày 17 tháng 3 năm 2019, bị cáo đến công an xã Phước Kiểng, huyện Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh đầu thú và được cho tại ngoại. Sau đó vào lúc 12 giờ 30 phút ngày 08 tháng 5 năm 2019 bị cáo tiếp tục lén lút lấy trộm ví tiền bên trong có số tiền 300.000 đồng và xe mô tô biển số 61N7-8522 của anh Phạm Văn C. Tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 34.800.000 đồng. Với hành vi đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo 02 năm tù về tội « Trộm cắp tài sản » theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Do bị cáo đã thực hiện tội phạm liên tục, khi đang được tại ngoại điều tra vẫn tiếp tục phạm tội, thể hiện thái độ coi thường pháp luật nhà nước, do đó cần phải xem xét áp dụng mức hình phạt đủ nghiêm khắc mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo. Ngoài ra bị cáo phạm tội thuộc trường hợp: “phạm tội 02 lần trở lên” là tình tiết tăng nặng được quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015. Tòa án cấp phúc thẩm xử phạt bị cáo 02 năm tù về tội: “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ thỏa đáng, phù hợp với tính chất, mức độ và hậu quả phạm tội do bị cáo gây ra.

Đồng thời, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không trình bày được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới, nên không có căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Vì vậy, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

Không Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Anh Đ, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 140/2019/HSST ngày 16/10/2019 của Tòa án nhân dân Quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh.

Căn cứ Khoản 1 Điều 173; Điểm s Khoản 1 Khoản 2 Điều 51; Điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt Bị cáo Bùi Anh Đ: 02 (Hai) năm tù về tội: “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 27/5/2019.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm về các vấn đề không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

48
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 600/2019/HSPT

Số hiệu:600/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về