Bản án về tội trộm cắp tài sản số 57/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ S – TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 57/2022/HS-ST NGÀY 19/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 9 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh Thanh Hóa. Xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 55/2022/TLST- HS ngày 12 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2022, đối với:

- Bị cáo: Mai Văn Q - sinh năm 1988. (Giới tính: Nam) ĐKHKTT: Thôn 1, xã Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Mai Văn Tr (đã chết) và bà Trần Thị C; bố, mẹ bị cáo sinh được 4 người con, Quy là con thứ 3 trong gia đình; vợ: Lê Thị H. có 2 con, con lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2016.

Tiền sự: Ngày 25/9/2021 bị UBND xã Q áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” Tiền án: Tại Bản án số 57/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 của TAND thành phố S, tỉnh Thanh Hóa, xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/7/2021.

Nhân thân: - Ngày 24/11/2020 bị Công an thành phố S ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”, chưa chấp hành.

- Ngày 26/12/2020 bị Công an thành phố S ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”. chưa chấp hành.

Hiện nay bị cáo đang bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” , từ ngày 10/6/2022. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Ngọc T, là Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Nhà nước pháp lý tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt có lý do.

- Bị hại: Chị Trình Thị N - sinh năm 1988. Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn 1, xã Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

- Người làm chứng:

1. Anh Lưu Văn G - sinh năm 1992.

Địa chỉ: Thôn 1, xã Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

2. Chị Phạm TT - sinh năm 1994.

Địa chỉ: Tổ dân phố S, phường TS, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa. (Các nhân chứng đều vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 9 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 2022. Mai Văn Q, đi bộ từ nhà mình đến nhà Lưu Văn G, sinh năm 1992 ở thôn 1, xã Q, thành phố S, mượn xe máy đi đón con, sau đó Quy điều khiển xe đến nhà chị Trình Thị N, sinh năm 1988 ở thôn 1, xã Q, thành phố S để vay tiền, khi đến nơi Q gọi nhưng không thấy ai trả lời, quan sát thấy cửa cổng đang mở, trước nhà chị N có 03 bình ác quy đang sạc điện để trên xe kéo nên Q đã nảy sinh ý định trộm cắp. Mai Văn Q dựng xe máy ở ngoài đường đi bộ vào trong sân rồi đi lại vị trí xe kéo lấy 01 bình ắc nhãn hiệu “DONGNAI” N150Z, loại 12V-160Ah mang ra để ở khung giữa xe máy rồi điều khiển xe đến cửa hàng phế liệu của chị Phạm TT, sinh năm 1994 ở tổ dân phố S, phường TS, thành phố S, đến nơi Q vào gặp chị Tr nói “Bình ắc quy em không dùng nữa muốn bán nên chị Tr đồng ý mua với giá 760.000đồng, toàn bộ số tiền bán ắc quy, Mai Văn Q dùng tiêu sài cá nhân hết.

Sau khi đi làm về chị Trình Thị N phát hiện bị mất 01 bình ác quy để trên xe kéo trước nhà thì đến Công an xã Q, thành phố S trình báo sự việc, theo báo cáo của chị Trình Thị N 01 bình ắc quy mất trộm gia đình chị mua vào khoảng tháng 4/2021 với giá 3.200.000đồng.

Nhận được nguồn tin về tội phạm Công an xã Q đã trích xuất Camera an ninh của gia đình anh Lê Văn N để thu thập dữ liệu, xác định đối tượng. Sau khi được Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố S cho xem dữ liệu hình ảnh, Mai Văn Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, khẳng định nam thanh niên có đặc điểm trong đoạn video chính là mình và tự nguyện giao nộp cho cơ quan điều tra 01 áo chống nắng dài tay, có mũ màu xanh tím than và 01 mũ lưỡi trai màu đen là trang phục Mai Văn Q sử dụng khi trộm cắp tài sản.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 28/Kl-HĐĐG ngày 08/6/2022 của Hội đồng định giá tài sản UBND thành phố S kết luận: Giá trị tài sản bình ắc quy nhãn hiệu ‘DONGNAT” N150Z loại 12V-160Ah, tại thời điểm Mai Văn Q trộm cắp là 1.000.000đ (Một triệu đồng).

Tại bản kết luận giám định số: 2104/KL-KTHS ngày 10/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận: Không phát hiện dấu hiệu chỉnh sửa, cắt ghép nội dung hình ảnh trong 01 tệp video của 01 USB giửi giám định.

Về vật chứng vụ án: - Đối với 01 áo chống nắng dài tay, có mũ màu xanh tím than và 01 mũ lưỡi trai màu đen đã qua sử dụng; 01 phong bì đựng 01 USB có chứa hình ảnh liên quan đến hành vi phạm tội của bị can đang được quản lý theo hồ sơ vụ án.

- Đối với 01 bình ác quy nhãn hiệu ‘DONGNAT” N150Z loại 12V- 160Ah, do Phạm TT giao nộp, sau khi xác định bình ác quy trên là tài sản thuộc sở hữu của chị Trình Thị N. Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản trên cho chị N.

- Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Sirius BKS: 60N1- X là xe của gia đình Lưu Văn G, khi cho Q mượn xe anh G không biết Quy sử dụng xe máy vào việc trộm cắp tài sản nên cơ quan điều tra không thu giữ xe máy trên.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra chị Trình Thị N đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì. Ngoài ra Mai Văn Q đã trả lại số tiền 5.00.000đồng cho chị Phạm TT, sau khi nhận tiền chị Tr không có yêu cầu đề nghị gì khác.

Cáo trạng số: 62/Ctr-VKS-HS ngày 11 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố S, truy tố Mai Văn Q, về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Mai Văn Q và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS, xử phạt Mai Văn Q, mức án từ 9 đến 12 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính ngày bắt giam Thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra chị Trình Thị N đã nhận lại tài sản và Mai Văn Q đã trả lại số tiền 500.000đồng cho chị Phạm TT, do đó chị N và chị Tr không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên miễn xét.

Về xử lý vật chứng: 01 (Một) áo chống nắng dài tay, có mũ màu xanh tím than và 01 mũ lưới trai màu đen đã cũ. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên trả trả lại cho bị cáo vì đây là đồ dùng cá nhân của bị cáo.

- 01 USB đựng trong một phong bì niêm phong có chứa hình ảnh liên quan đến hành vi phạm tội của Mai Văn Q cần lưu trong hồ sơ vụ án.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là lao động tự do, không có nghề nghiệp ổn định, thuộc đối tượng được cấp sổ hộ nghèo nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về án phí: Bị cáo thuộc đối tượng có sổ hộ nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Trợ giúp viên pháp lý có quan điểm bào chữa: Thống nhất về tội danh điều luật áp dụng như Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố S đã truy tố.

Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến hoàn cảnh phạm tội Mai Văn Q và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và các chính sách nhân đạo của Nhà nước và Pháp luật để xử Mai Văn Q mức án thấp nhất và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho Mai Văn Q.

Trước khi HĐXX vào nghị án, trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị HĐXX xem xét, xử bị cáo mức án thấp nhất để bị cáo có điều kiện sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Trong giai đoạn tiến hành tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện điều tra, truy tố đúng theo quy định của pháp luật. Qúa trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến gì và không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

[2]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Do nghiện ma túy, lười nhác lao động, không chịu rèn luyện bản thân nhưng muốn có tiền để tiêu sài và mua ma túy sử dụng nên vào khoảng 9 giờ 30 phút ngày 30/4/2022. Mai Văn Q đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của gia đình chị Trình Thị N, tại thôn 1, xã Q, thành phố S, 01 bình ác quy nhãn hiệu “DONGNAI” N150Z, loại 12V-160Ah. Qua định giá là 1.000.000đ (Một triệu đồng).

Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo Mai Văn Q, về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS, là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất vụ án: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo Quy đã cố ý trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật, gây tâm lý hoang mang, lo lắng, bất bình đối với quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an xã hội trên địa bàn dân cư, nên cần phải có đường lối xử lý nghiêm minh tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra để bị cáo thấy được sự nghiêm minh của pháp luật.

[4]. Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân xấu, cụ thể, về tiền sự: Ngày 25/9/2021 bị UBND xã Q áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; tiền án: Tại Bản án số 57/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 của TAND thành phố S, tỉnh Thanh Hóa, xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/7/2021; nhân thân: Ngày 24/11/2020 bị Công an thành phố S ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” chưa chấp hành và ngày 26/12/2020 bị Công an thành phố S ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”, chưa chấp hành, nhưng bị cáo không lấy đó là bài học kinh nghiệm để rèn luyện bản thân mà ngày càng sa vào con đường phạm tội, tài sản trộm cắp được chưa kịp mang đi tiêu thụ thì bị phát hiện thu hồi. Quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, bị cáo thuộc diện hộ nghèo là lao động tự do thu nhập không ổn định, phạm tội lần này thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên khi lượng hình cũng cần xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo, nhưng việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết mới đủ tác dụng giáo dục răn đe và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra chị Trình Thị N và chị Phạm TT đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên miễn xét.

[6]. Về xử lý vật chứng và tiền án phí: Cần xem xét xử lý theo quy định của Pháp luật.

[7]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là lao động tự do, không có nghề nghiệp ổn định, thuộc diện hộ nghèo nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS.

- Điều 61; 62; 331; 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Mai Văn Q, phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Mai Văn Q, 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Miễn thời gian chấp hành cai nghiện còn lại của Quyết định số: 25/QĐ-TA ngày 29/8/2022 đối với Mai Văn Q, về việc “Áp dụng biện pháp xử lý hành chính” đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 1 Thanh Hóa.

Địa chỉ: Xã Hoằng Giang, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa, kể từ khi bắt giam Thi hành án.

Về xử lý vật chứng: - 01 (Một) áo chống nắng dài tay có mũ màu xanh tím than và 01 mũ lưới trai màu đen đã qua sử dụng cũ, trả trả lại cho bị cáo vì đây là đồ dùng cá nhân của bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội, theo mưu tả tại biên bản giao nhận vật chững số: 59/BBVC-CCTHA ngày 12/8/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

Về án phí: Bị cáo Mai Văn Q, được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo Mai Văn Q có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; bị hại Trình Thị N, có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai tại UBND xã Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6; Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

61
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 57/2022/HS-ST

Số hiệu:57/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sầm Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:19/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về