Bản án về tội trộm cắp tài sản số 56/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KỲ ANH, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 56/2022/HS-ST NGÀY 28/10/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 10 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Kỳ Anh xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 52/2022/HSST ngày 03 tháng 10 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn L. Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam; Sinh ngày 12 tháng 09 năm 1994; Quê quán: Xã X, thị xã X, tỉnh Hà Tĩnh; Hộ khẩu thường trú và chổ ở hiện nay: Thôn X, xã X, thị xã X, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: Lớp 06/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Quần chúng; Con ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1961; Con bà Lê Thị Th, sinh năm 1961; Anh, chị, em ruột: Có 03 người, bị cáo là con thứ ba; Vợ: Lê Thị Ph (đã ly hôn vào năm 2020); Con: có 01 đứa, sinh năm 2018, (hiện con đang sinh sống với bị cáo); Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã X, thị xã X, tỉnh Hà Tĩnh, kể từ ngày 09/8/2022 cho đến nay. (Có mặt)

- Bị hại: Anh Lê Ngọc A, sinh năm 1996; Nghề nghiệp: Lao động tự do;

Địa chỉ: Tổ dân phố X, phường X, thị xã X, tỉnh Hà Tĩnh. (Vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1961; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Địa chỉ: Thôn X, xã X, thị xã X, tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt)

2. Anh Nguyễn Xuân L, sinh năm 1986; Nghề nghiệp: Buôn bán; Địa chỉ: Thôn X, xã X, thị xã X, tỉnh Hà Tĩnh. (Vắng mặt)

* Người làm chứng:

Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1965; Địa chỉ: Thôn X, xã X, thị xã X, tỉnh Hà Tĩnh. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 00 phút, ngày 11/7/2022, Nguyễn Văn L đi xe mô tô BKS 38K1 - xxxxx (xe của bố là Nguyễn Văn P cho mượn để đi chơi) đến Bệnh viện Đa khoa thị xã Kỳ Anh để thăm nuôi người nhà bị ốm đang điều trị tại tầng 2, khoa Chấn thương của Bệnh viện. Đến khoảng 02 giờ ngày 12/7/2022, Nguyễn Văn L đi xuống tầng 1 để hút thuốc lá, khi đi qua phòng bệnh nhân của khoa Hồi sức cấp cứu thì nhìn thấy tại giường bệnh số 06 có một bệnh nhân đang nằm ngủ, bên cạnh có chiếc điện thoại di động Iphone 12 Promax, màu xanh dương nên đã nảy sinh ý định lấy trộm. Nguyễn Văn L đi lại lấy chiếc điện thoại bỏ vào trong túi quần của mình, rồi đi ra nằm ngủ tại ghế ngoài hành lang tầng 1, khoa Hồi sức cấp cứu. Đến khoảng 07 giờ 30 phút cùng ngày, Nguyễn Văn L tháo sim chiếc điện thoại trộm cắp được vứt đi, rồi đưa đến bán cho anh Nguyễn Xuân L, chủ cửa hàng điện thoại Tuấn Lực, ở phường Hưng Trí, thị xã Kỳ Anh với giá 3.000.000đ. Khi bán chiếc điện thoại, Nguyễn Văn L nói dối là điện thoại của mình nên anh Nguyễn Xuân L không biết tài sản do trộm cắp mà có. Ngày 12/7/2022, sau khi có dấu hiệu nghi vấn, Cơ quan điều tra Công an thị xã Kỳ Anh triệu tập Nguyễn Văn L đến làm việc thì Nguyễn Văn L khai nhận hành vi phạm tội của mình và giao nộp 3.000.000đ tiền bán điện thoại trộm cắp được cho Cơ quan điều tra Công an thị xã Kỳ Anh.

Tài sản mà Nguyễn Văn L chiếm đoạt là của anh Lê Ngọc A, sinh năm 1996, trú tại khu tái định cư Tổ dân phố Nhân Thắng, phường Kỳ Phương, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Tại bản kết quả định giá số 04/KL-HĐĐG, ngày 28- 7-2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã Kỳ Anh, thì chiếc điện thoại hiệu Iphone 12 Promax của anh Lê Ngọc A bị Nguyễn Văn L lấy trộm trị giá 16.125.000 đồng.

Với hành vi trên, bản cáo trạng số 53/CT-VKS-TXKA ngày 28-9-2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa;

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã truy tố;

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Kỳ Anh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội Trộm cắp tài sản; đề nghị áp dụng Khoản 1 Điều 173; Điểm b, i, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L mức án từ 12 đến 15 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng tính từ ngày tuyên án; Về áp dụng biện pháp tư pháp: đề nghị tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền thu lợi bất chính 3 triệu đồng ; Về án phí: Đề nghị xử buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, cho bị cáo được cải tạo giáo dục tại địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Kỳ Anh, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kỳ Anh, kiểm sát viên quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn L khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai có tại hồ sơ, phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 02 giờ, ngày 12/7/2022, trong lúc đi chăm sóc người ốm tại Bệnh viện đa khoa thị xã Kỳ Anh, bị cáo Nguyễn Văn L đã chiếm đoạt chiếc điện thoại Iphone 12 Promax, màu xanh dương trị giá 16.125.000 đồng của anh Lê Ngọc A. Với hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản trị giá 16.125.000 đồng, bị cáo Nguyễn Văn L đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, bản cáo trạng số 53/CT-VKS-TXKA ngày 28-9-2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kỳ Anh đã truy tố, đề nghị xét xử bị cáo về tội danh, điều luật quy định như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản cá nhân được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an xã hội, gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân nên cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội, tuy nhiên cũng phải xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Xuân L đã có hành vi mua chiếc điện thoại của bị cáo, tuy nhiên khi mua tài sản, ông Nguyễn Xuân L không biết rõ tài sản do việc phạm tội mà có và tài sản chiếc điện thoại không thuộc loại tài sản phải đăng ký tên chủ sở hữu nên chưa có đủ căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Bồi thường khắc phục thiệt hại xẩy ra; Ngoài ra, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, i, s Khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo Nguyễn Văn L sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Bồi thường, khắc phục thiệt hại; Người bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm cho bị cáo; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bản thân bị cáo chân bị tàn tật đi lại khó khăn, bị cáo đang nuôi con nhỏ và có nơi cư trú rõ ràng, chưa có tiền án, tiền sự, xét thấy bị cáo có đủ căn cứ và điều kiện để được hưởng án treo, do đó chưa cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội, mà xử phạt bị cáo mức án tù phù hợp và cho bị cáo được cải tạo giáo dục tại địa phương như lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Nguyễn Văn L đã bồi thường cho người bị hại anh Lê Ngọc A số tiền 300.000 đồng chi phí tìm kiếm tài sản và đã nhận lại tài sản bị mất, không có yêu cầu gì thêm về bồi thường dân sự, nên Hội đồng xét xử miễn xét.

Người có quyên lợi và nghĩa vụ liên quan Nguyễn Xuân L đã nhận lại số tiền 3.000.00 đồng, tiền trả mua điện thoại là đúng quy định pháp luật và không có yêu cầu gì thêm bồi thường dân sự nên miễn xét.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn P đã nhận lại tài sản của mình là chiếc xe mô tô BKS 38K1 -xxxxx là đúng quy định pháp luật và không có yêu cầu ghì thêm về bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử miễn xét.

Về vật chứng: Xét các vật chứng: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Apple, loại Iphone 12 Pro Max màu xanh dương, số máy MGCA3J/A, số sê-ri G0NDQGSQOD4H, do Nguyễn Xuân L giao nộp và 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda, loại xe Sh model, màu đỏ BKS: 38K1-xxxxx, Cơ quan điều tra Công an thị xã Kỳ Anh đã trả cho bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan theo đúng trình tự, thủ tục luật định.

Về áp dụng biện pháp tư pháp: Xét số tiền 3.000.000 đồng có được do Nguyễn Văn L bán chiếc điện thoại là số tiền thu lợi bất chính từ việc phạm tội mà có, bị cáo đã bồi thường cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, tại phiên tòa bị cáo không có yêu cầu lấy lại số tiền trên, nên tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước theo luật định.

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s, Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự;

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự;

Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 3, Khoản 1 Điều 21; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 và mục A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án, ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Tuyên xử:

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 12 (Mười hai) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 24 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Văn L cho Ủy ban nhân dân xã Kỳ Ninh, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì việc giám sát giáo dục trong thời gian thử thách được thực hiện theo quy định tại điều 92 Luật thi hành án Hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự.

3. Về biện pháp tư pháp: Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền thu lợi bất chính 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) của bị cáo Nguyễn Văn L.

(Tình trạng vật chứng trên có tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 28-9- 2022 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Kỳ Anh với Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Kỳ Anh)

4. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn L phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo phần liên quan đến quyền lợi của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo phần liên quan đến quyền lợi của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 56/2022/HS-ST

Số hiệu:56/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về