Bản án về tội trộm cắp tài sản số 56/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 56/2022/HSST NGÀY 23/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở, Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai xét xử sư thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý sô 19/2021/HSST ngày 22/1/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2022/QĐXXST- HS ngày 10 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo: Nguyễn T Đ- Sinh năm 1997- Giới tính: Nam. HKTT và chỗ ở: Đội 1, K T, XÃ SĐ, HUYỆN B, TP H. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 12/12. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Con ông: Nguyễn M P và bà: Ngô T S. Bị cáo chưa có vợ, con. TA, TS: Chưa.

Bị cáo đầu thú ngày 25/07/2021, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

Bị hại:

Anh Nguyễn V L-SN 2000;

HKTT: Thôn X, xã H M, huyện V Y, tỉnh B;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 20/7/2021, Nguyễn T Đ đến phòng trọ của anh Hoàng T (SN 2000; HKTT: P M, HUYỆN P L, TỈNH T) tại địa chỉ số 102 ngõ G, PHƯỜNG H, QUẬN Hoàng Mai, TP H để ngủ nhờ vì thời điểm này anh T đang về quê và phòng trọ để không. Khi đến nơi, Đức thấy anh Anh Nguyễn V L(HKTT: Thôn X, xã H M, huyện V Y, tỉnh B); Chỗ ở: 102 ngõ G, PHƯỜNG H, QUẬN Hoàng Mai, TP H) là người thuê trọ ở cùng khu nhà có để chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đen, BKS 29E2-398.69 không khóa cổ, khóa càng ở sân trước cửa phòng trọ của anh L. Do không có xe để đi lại nên Đ đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe máy trên. Trước đó Đ làm nghề sửa chữa xe máy nên có am hiểu về xe. Khoảng 02 giờ ngày 21/7/2021, lợi dụng khi mọi người đã ngủ say nên Đ dậy mở cửa cổng khu trọ và dắt chiếc xe máy trên ra khỏi cửa. Đ thò tay vào phía trong mặt nạ xe, kéo rắc ở khóa xuống và dùng 01 đoạn lõi dây điện bằng đồng để đấu điện. Sau đó, Đ nổ máy xe và lái chiếc xe trộm cắp được về thẳng nhà Đ tại : Đội 1, K T, XÃ SĐ, HUYỆN B, TP H. Đến chiều ngày 21/7/2021, Đ thấy anh L gọi điện thoại cho mình và biết được anh L đã phát hiện ra Đ trộm cắp chiếc xe máy của anh L nên khoảng 10 giờ 00 phút ngày 22/7/2021, Đ điều khiển xe máy trộm cắp đến nhà mẹ của mình đang trọ tại số 6 ngách 35A ngõ G, phường TĐ, QUẬN H, TP H và hẹn anh L để trả xe. Sau khi trả xe xong cho anh L, Đ thấy có người nhà anh L đến. Do lo sợ bị đánh nên Đ bỏ chạy. Sau đó, anh Nguyễn Văn L đã đến Công an phường H để trình báo nội dung sự việc và giao nộp 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đen bạc BKS: 29E2 – 398.68 là tài sản anh L bị Đ lấy trộm.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 198/KL-HĐĐGTS ngày 14/10/2021, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hoàng Mai kết luận: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đen bạc BKS: 29E2 – 398.68, số khung: 4612852, số máy: 0588025 có giá trị 14.500.000đồng (Mười bốn triệu năm trăm nghìn đồng) (BL 147-158).

Cơ quan CSĐT CAQ Hoàng Mai đã tiến hành dẫn giải anh Nguyễn Văn L, xác định địa điểm anh L bị trộm cắp xe máy tại 102 ngõ G, PHƯỜNG H, QUẬN Hoàng Mai, TP H. Tiến hành kiểm tra 01 điện thoại Iphone 7 màu đen của anh L, kết quả tại phần mềm Zalo trong máy anh L có nickname “Thắng phutungxeduc MER BMW AUDI” có nhắn tin với nick Zalo “Người Hà Nội” của Nguyễn T Đ thể hiện nội dung Đ khai đã thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe máy của anh L ngày 21/7/2021.

Cơ quan CSĐT CAQ Hoàng Mai đã tiến hành rà soát camera tại hiện trường, kết quả phát hiện trích xuất 01 camera tại số 102 ngõ G, PHƯỜNG H, QUẬN Hoàng Mai, TP H của chị Đặng Thị D (SN 1971; HKTT: 248b AD, PHƯỜNG Y, QUẬN T, TP H) ghi lại hình ảnh khoảng 21 giờ 38 phút ngày 20/7/2021 Nguyễn T Đ mở cửa đi vào trong nhà số 102 ngõ G và thời điểm 02 giờ 02 phút 22 giây đến 02 giờ 03 phút 46 giây ghi nhận hình anh Đ dắt xe của anh L ra ngoài.

Ngày 25/7/2021, Nguyễn T Đ đến Công an phường H để đầu thú. Tại cơ quan công an, Đức đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đen bạc BKS: 29E2 – 398.68, số khung: 4612852, số máy: 0588025, qua xác minh xác định chủ sở hữu chiếc xe trên của anh Thái Vĩnh C (Địa chỉ: P1 A4 KT, QUẬN Đ, TP H). Anh C trình bày anh C mua chiếc xe trên từ thời điểm năm 2018, đến năm 2020 thì anh C bán lại chiếc xe trên cho anh Nguyễn Văn L. Quá trình mua bán xe, giữa anh C và anh L có lập giấy tờ mua bán nhưng do đã lâu nên anh C và anh L đều không tìm được. Qua tra cứu, chiếc xe máy trên không nằm trong cơ sở dữ liệu xe tang vật. Ngày 02/11/2021, cơ quan CSĐT CAQ Hoàng Mai đã trao trả lại chiếc xe máy trên cho anh L. Anh L đã nhận bồi thường đầy đủ có đơn xin xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho Đ.

Tại cáo trạng số 332/CT - VKS ngµy 18/10/2021 Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, Hà Nội truy tố Nguyễn T Đ về tội “ Trộm cắp tài sản” qui định tại khoản 1 Điều 173 - Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 8 đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách 16 đến 20 tháng.

Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì về dân sự nên không xét. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Hoàng Mai, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo:

Đủ cơ sở kết luận: Khoảng 02 giờ ngày 21/7/2021, Nguyễn T Đ lén lúc chiếm đoạt của anh Nguyễn Văn Lợi chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đen bạc BKS: 29E2 – 398.68 trị giá 14.500.000 đồng tại sân nhà số 102 ngõ Gốc Đề, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Mai, Hà Nội.

Hành vi nêu trên của Nguyễn T Đ đã phạm tội Trộm cắp tài sản. Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai truy tố bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét về nhân thân bị cáo, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ: Hành vi phạm tội của bị cáo gây mất trật tự trị an xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ. Vì vậy cần phải xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự, Khi lượng hình, Hội đồng xét xử cũng xem xét bị cáo nhân thân chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo ra đầu thú, tài sản đã thu hồi trả lại cho người bị hại, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ theo điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xét bị cáo có nhân thân tốt, nhất thời nông nổi mà phạm tội, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, còn có khả năng cải tạo, có đủ các điều kiện để cải tạo ngoài xã hội, Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo, cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo chưa có nghề nghiệp ổn định nên miễn hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản không yêu cầu về dân sự nên không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo và người bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Nguyễn T Đ phạm tội Trộm cắp tài sản.

Căn cứ Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự.

Căn cứ Điều 106, 136, Điều 331, Điều 333 - Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Khoản 1mục I phần A danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

*Xử phạt: Bị cáo Nguyễn T Đ 8 (Tám) tháng tù về tội trộm cắp tài sản nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách 16 (Mười sáu) tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã S, huyện B, thành phố H quản lý giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.

* Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

* Trong thời gian thử thách của án treo, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

* Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

332
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 56/2022/HSST

Số hiệu:56/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về