Bản án về tội trộm cắp tài sản số 55/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 55/2022/HS-ST NGÀY 14/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 14/2022/TLST-HS ngày 03 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2022/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

NGỌC THẾ V, sinh năm 1988; ĐKHKTT và nơi ở: Số 20, Ngõ 9, Tổ 2, phường P, quận H, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Thiên Chúa Giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Bá V1 và bà Trịnh Thị C; có vợ là Hoàng Thị T và 03 con;

Tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 186/2021/HS-ST ngày 07/10/2021 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xử phạt Ngọc Thế V 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Tiền sự: không;

Tạm giữ, tạm giam: Từ ngày 19/12/2021; hiện đang tạm giam tại Trại Tạm giam số 2 Công an thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Bà Phạm Thị T, sinh năm 1966; ĐKHKTT: Số 09, Ngách 1144, Tổ 1, phường Y, quận H, thành phố Hà Nội; vắng mặt tại phiên tòa, có đơn xin vắng mặt;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Chị Nguyễn Thị B, sinh năm 1989; ĐKHKTT: Tổ 8, phường Đ, quận H, thành phố Hà Nội; vắng mặt tại phiên tòa, có đơn xin vắng mặt;

- Ông Nguyễn Bá V1, sinh năm 1959; ĐKHKTT: Số 20, Ngõ 9, Tổ 2, phường P, quận H, thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do thiếu tiền chi tiêu cá nhân nên Ngọc Thế V đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của người khác bán lấy tiền ăn tiêu. Khi V đi qua khu vực cánh đồng Bãi Cấy, thuộc Tổ 1, phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, thấy xung quanh khu vườn của nhà bà Phạm Thị T có căng loại lưới thép B40. Khoảng 01 giờ sáng ngày 18/12/2021, V mang một chiếc kìm cắt sắt và điều khiển xe mô tô BKS: 29U8-xxxx (xe của ông Nguyễn Bá V1 là bố đẻ của V) đến khu vườn nhà bà T. Khi đi đến nơi, thấy xung quanh không có người qua lại, khu vườn không có ai trông coi nên V dùng kìm cắt hàng rào lưới thép B40 của khu vườn và cuộn lại thành 6 cuộn. V đưa các cuộn lưới thép lên xe máy, chở 02 chuyến, mỗi chuyến 03 cuộn đi cất giấu ở khu vực nghĩa trang Trinh Lương, phường Phú Lương, quận Hà Đông rồi về nhà ngủ. Đến khoảng 08 giờ sáng cùng ngày, V ra nghĩa trang chở 03 cuộn thép đến cửa hàng thu mua phế liệu của chị Nguyễn Thị B, địa chỉ tại mặt đường quốc lộ 6, thuộc Tổ 3, phường Đ, quận H. V nói có hàng rào thép B40 muốn bán, chị B và V thỏa thuận giá là 14.000 (mười bốn nghìn) đồng/01kg, V và chị B đặt 03 cuộn lưới thép B40 lên cân được 70kg, chị B trả cho V 1.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền, V điều khiển xe máy quay về nghĩa trang để chở tiếp 03 cuộn thép còn lại đi tiêu thụ. Khi V đang đưa các cuộn thép lên xe thì bị lực lượng Công an phường Phú Lãm phát hiện và yêu cầu về trụ sở làm việc.

Vật đã thu giữ:

- Thu giữ của chị Nguyễn Thị B: 03 cuộn thép lưới B40 đã qua sử dụng, có tổng khối lượng 70kg;

- Thu giữ của Ngọc Thế V:

+ 03 cuộn thép lưới B40 đã qua sử dụng, có tổng khối lượng 90kg;

+ 01 xe môtô nhãn hiệu SYM, BKS: 29U8-xxxx, số khung: RLGXA10DH6H108342, số máy: VMVA2A-D108342;

+ 1.000.000 đồng.

Tại Kết luận định giá tài sản số 364/KL-HĐĐGTS ngày 19/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hà Đông kết luận: 06 (sáu) cuộn thép lưới B40, tổng khối lượng 160kg, lưới thép cũ đã qua sử dụng, thu được tang vật có giá trị 2.720.000 đồng.

Trong giai đoạn điều tra, Ngọc Thế V khai nhận hành vi phạm tội của mình;

bà T đã được nhận lại tài sản bị chiếm đoạt; chị B đã được nhận lại số tiền 1.000.000 đồng là tiền mua 03 cuộn lưới thép.

Cáo trạng số 18/CT-VKS-HĐ ngày 01/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Ngọc Thế V về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội luận tội cho rằng tại phiên tòa bị cáo khai nhận tội phù hợp các tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận cáo trạng truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản đã viện dẫn là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên giữ nguyên nội dung truy tố. Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của người khác, gây mất trật tự xã hội. Bị cáo có nhân thân xấu, phạm tội cùng loại thuộc trường hợp tái phạm, thể hiện ý thức lười lao động, coi thường pháp luật, cần xử lý nghiêm, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, tài sản đã được thu hồi trả lại bị hại; bị cáo đầu thú, thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo phạm tội trong thời gian thử thách của án treo nên cần tổng hợp hình phạt của bản án trước buộc bị cáo phải chấp hành. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 5 Điều 65; Điều 38; Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Ngọc Thế V từ 09 tháng đến 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, tổng hợp hình phạt 06 tháng tù của Bản án trước, hình phạt chung của hai bản án là từ 15 tháng đến 18 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Bà T và chị B đã được nhận lại tài sản và tiền, không yêu cầu bồi thường thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa, trong đơn xin vắng mặt tại phiên tòa, đề nghị xử lý nghiêm đối với bị cáo. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra,Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông; Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về đánh giá chứng cứ trong vụ án: Lời khai nhận tội của bị cáo Ngọc Thế V tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố, thừa nhận đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản như nội dung Cáo trạng.

Căn cứ lời khai của bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, kết luận định giá tài sản, các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Do cần tiền chi tiêu, khoảng 01 giờ sáng ngày 18/12/2021, Ngọc Thế V điều khiển xe mô tô đến khu vườn của bà Phạm Thị T ở cánh đồng Bãi Cấy, thuộc Tổ 1, phường Y, quận H, thành phố Hà Nội. Lợi dụng khu vườn không có người trông coi, V dùng kìm cắt hàng rào lưới thép B40 cuộn thành 6 cuộn, tổng khối lượng 160kg, trị giá 2.720.000 đồng rồi chở đi cất giấu. Khoảng 08 giờ sáng cùng ngày, V chở 03 cuộn thép đến cửa hàng thu mua phế liệu bán cho chị Nguyễn Thị B lấy số tiền 1.000.000 đồng. Khi V đang đưa 03 cuộn thép còn lại lên xe để mang đi tiêu thụ thì bị lực lượng Công an phát hiện và yêu cầu về trụ sở cơ quan Công an làm việc.

Bị cáo là người có nhận thức đầy đủ về hành vi của mình, cố ý lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản có giá trị 2.720.000 đồng nên hành vi của bị cáo thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và các tình tiết có ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng: Giá trị tài sản bị chiếm đoạt không lớn, đã thu hồi toàn bộ trả cho bà T, bà T không yêu cầu bồi thường thêm; đối với số tiền bị cáo thu được từ việc bán tài sản trộm cắp đã bị thu giữ trả cho chị B.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bản án hình sự sơ thẩm số 186/2021/HS-ST ngày 07/10/2021 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xử phạt Ngọc Thế V 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tong vụ án này vào ngày 18/12/2021, trong thời hạn thử thách của án treo nên thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại Điều 53 của Bộ luật Hình sự, là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Xét bị cáo có nhân thân xấu, đang trong thời gian chấp hành hình phạt của bản án trước lại thực hiện hành vi phạm tội, thể hiện ý thức coi thường pháp luật, cần xử lý nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo thành người có ý thức chấp hành pháp luật.

Tuy nhiên, bị cáo đầu thú, thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt.

[4] Bị cáo phạm tội trong thời hạn thử thách của án treo, áp dụng quy định tại khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự, bị cáo phải chấp hành hình phạt 06 tháng tù theo Quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 186/2021/HS-ST ngày 07/10/2021 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, cần áp dụng Điều 56 của Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt của hai bản án buộc bị cáo phải chấp hành.

Bị cáo được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam vào hình phạt tù, cứ mỗi ngày tạm giữ, tạm giam được tính trừ một ngày tù. Thời gian tạm giữ trong vụ án trước được ghi nhận trong Bản án hình sự sơ thẩm số 186/2021/HS-ST ngày 07/10/2021 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông từ ngày 10/6/2021 đến ngày 19/6/2021 được tính trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung của hai bản án.

[5] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

- Bị hại là bà Phạm Thị T đã được nhận lại toàn bộ số tài sản bị chiếm đoạt, không yêu cầu bồi thường gì khác nên Hội đồng xét xử không xét.

- Chị Nguyễn Thị B đã giao nộp cho Cơ quan điều tra 03 cuộn lưới thép mua của V để trả bị hại, chị B đã được nhận lại số tiền 1.000.000 đồng, không yêu cầu bồi thường gì khác nên Hội đồng xét xử không xét.

- Cơ quan Cảnh sát điều tra trả lại ông Nguyễn Bá V1 chiếc xe mô tô V sử dụng khi trộm cắp tài sản là có căn cứ.

[6] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

 Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Ngọc Thế V phạm tội Trộm cắp tài sản.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Ngọc Thế V 12 (mười hai) tháng tù về trội Trộm cắp tài sản.

Áp dụng khoản 5 Điều 65; Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, tổng hợp hình phạt 06 (sáu) tháng tù theo quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 186/2021/HS-ST ngày 07/10/2021 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xử phạt Ngọc Thế V về tội Trộm cắp tài sản, hình phạt chung của hai bản án bị cáo Ngọc Thế V phải chấp hành là 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/12/2021, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 10/6/2021 đến ngày 19/6/2021 theo quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 186/2021/HS-ST ngày 07/10/2021.

2. Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

- Bị hại là bà Phạm Thị T đã được nhận lại toàn bộ số tài sản bị chiếm đoạt, không yêu cầu bồi thường gì khác nên Hội đồng xét xử không xét.

- Chị Nguyễn Thị B đã được nhận lại số tiền 1.000.000 (một triệu) đồng, không yêu cầu bồi thường gì khác nên Hội đồng xét xử không xét.

- Cơ quan Cảnh sát điều tra trả lại ông Nguyễn Bá V1 chiếc xe mô tô V sử dụng khi trộm cắp tài sản là có căn cứ.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Ngọc Thế V phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 14/4/2022; bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã (phường, thị trấn) nơi đương sự cư trú, hoặc cư trú cuối cùng.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

44
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 55/2022/HS-ST

Số hiệu:55/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về