Bản án về tội trộm cắp tài sản số 55/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN C, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 55/2022/HS-ST NGÀY 07/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 07 tháng 9 năm 2022, tại điểm cầu trung tâm: Trụ sở Tòa án nhân dân quận C, thành phố Đà Nẵng và điểm cầu thành phần: Trại Tạm giam Công an tp. Đà Nẵng, Tòa án nhân dân quận C, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số: 47/2022/TLST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2022/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn M. Giới tính: Nam. Sinh ngày: 01/01/1978. tại Đà Nẵng. Nơi cư trú: tổ 124, phường H, quận L, tp Đà Nẵng. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: 6/12; Cha: Trần Văn T (đã chết). Mẹ: Nguyễn Thị X (sinh năm 1953). Gia đình có 07 người con, bị cáo là con thứ hai. Vợ: Nguyễn Thị Hồ B (sinh năm 1982), có hai con C lớn nhất (sinh năm 2005) và nhỏ nhất (sinh năm 2009).

Tiền án: Tại bản án số 46/2019/HSST ngày 25/10/2019 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn tuyên phạt 2 năm 6 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/5/2021.

Tiền sự: Chưa Nhân thân:

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 16/HSST ngày 31/10/1998 của Tòa án nhân dân quận L xử phạt 9 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

Năm 2001, Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục trong thời hạn 24 tháng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 74/2010/HSST ngày 17/8/2010 của Tòa án nhân dân quận L xử phạt 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 09/2011/HSST ngày 28 /3/2011 của Tòa án nhân dân quận C xử phạt 2 năm 6 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 14/01/2022 tại Tại tạm giam công an Tp. Đà Nẵng. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1. Anh Nguyễn Hữu T H, sinh năm 1985. Địa chỉ: 38 đường C, phường T, quận C, tp Đà Nẵng. Vắng mặt.

2. Anh Phạm Văn L, sinh năm 1970. Địa chỉ: 18 đường C, phường T, quận C, tp Đà Nẵng. Vắng mặt.

3. Anh Võ Phương Đ, sinh năm 1981. Địa chỉ: 11A Đ, phường K, quận T, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

4. Chị Lê Thục U, sinh năm 1997 và anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1997. Địa chỉ: số 84 Nguyễn Giản Thanh, phường K, quận T, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

5. Anh Nguyễn Quốc H - cửa hàng I. Địa chỉ: 139 Đ, phường C, quận T, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

6. Chị Bùi Thị C, sinh năm 1989. Địa chỉ: số 22 Trần Thủ Độ, phường T, quận C, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

7. Chị Nguyễn Thị T C, sinh năm 1984 và anh Huỳnh Anh D, sinh năm 1977. Địa chỉ: số 92 Nguyễn Phong Sắc, phường T, quận C, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Trịnh Văn H, sinh năm 1991. Địa chỉ: số 502 đường T, quận L, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

2. Chị Trần Thị T, sinh năm: 1990. Nơi cư trú: tổ 122, phường H, quận L, tp Đà Nẵng.

3. Chị Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1984. Địa chỉ: 56 T, phường Hòa Khê, quận T, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt

Tham gia tại điểm cầu trung tâm (Hội trường xét xử Tòa án nhân dân quận C, tp Đà Nẵng) gồm có: Hội đồng xét xử, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận C và Thư ký phiên tòa).

Tham gia tại điểm cầu thành phần (Trại Tạm giam Công an tp. Đà Nẵng) gồm có:

- Bị cáo Trần Văn M.

- Các cán bộ, chiến sỹ của Trại Tạm giam Công an tp. Đà Nẵng:

1. Ông Đinh Trương Hoàng, chức vụ: Thiếu tá, Cán bộ Trại Tạm giam Công an tp. Đà Nẵng.

2. Ông Trần Hữu Huy, chức vụ: Đại úy, Cán bộ Trại Tạm giam Công an tp. Đà Nẵng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong thời gian từ cuối tháng 7/2021 đến ngày 12/01/2022, Trần Văn M lợi dụng thời điểm đêm khuya, điều khiển xe mô tô hiệu Sirius, màu đỏ đen BKS: 43F1- xxxxx, đi quanh các tuyến đường trên địa bàn tp. Đà Nẵng, tìm xem nhà nào có sơ hở, không khóa cửa thoát hiểm thì đột nhập trộm cắp tài sản. Với phương thức thủ đoạn như trên, Trần Văn M đã nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội như sau:

Lần 1: khoảng 23 giờ, ngày 25/07/2021, Trần Văn M điều khiển xe mô tô đến khu vực phường T, quận C. Tại đây, M cất xe máy tại một bãi đất trống rồi đi bộ vào trong một đường luồng thoát hiểm phía sau khu dân cư. Bị cáo phát hiện căn nhà của anh Nguyễn Hữu T H không khóa cửa sau nên M đột nhập vào nhà. Tại phòng ngủ tầng trệt, bị cáo thấy một điện thoại di động hiệu OPPO RENO3 5G, trị giá: 7.144.000đ đang cắm sạc. M rút điện thoại cất vào người. Tiếp đó, M đi đến vị trí móc treo quần áo, kiểm tra ví da của anh H ở trong túi quần và lấy được số tiền: 4.000.000đ. Sau đó, bị cáo tẩu thoát ra ngoài.

Qua hôm sau, M đem điện thoại chiếm đoạt được bán cho người đàn ông tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) trên đường Nguyễn Khuyến thuộc quận L, thành phố Đà Nẵng được 500.000 đồng. Toàn bộ số tiền có được từ việc phạm tội, bị cáo đã tiêu xài hết. Số tài sản của anh H bị mất không thu hồi được, anh H yêu cầu bồi thường số tiền: 11.144.000đ. Hiện M chưa bồi thường.

Lần 2: Ngay sau khi ra khỏi nhà anh Nguyễn Hữu T H, M tiếp tục đi theo lối thoát hiểm trên thì phát hiện nhà của anh Phạm Văn L không khóa cửa sau nên đột nhập vào trong. Sau khi tìm kiếm, bị cáo lấy được trong phòng ngủ tầng trệt 01 điện thoại di động hiệu Samsung A51 màu bạc trị giá 7.192.000đ đang cắm sạc dưới đất và số tiền 5.000.000đ trong ví da tại túi quần dài đang treo trên móc của anh L. M bán lại điện thoại của anh L cho một người tên H được 450.000 đồng. Số tiền có được từ việc phạm tội, bị cáo đã tiêu xài hết. Điện thoại di động hiệu Samsung A51 của anh L bị mất, không thu hồi được. Anh L yêu cầu bồi thường số tiền 12.192.000đ. Hiện M chưa bồi thường.

Lần 3: khoảng 23 ngày 10/11/2021, M điều khiển xe môtô đi đến khu thể thao quận T. M giấu xe mô tô rồi đi bộ vào một đường thoát hiểm để tìm nhà nào sơ hở thì phát hiện căn nhà của anh Võ Phương Đ không khóa cửa sau. M mở cửa vào trong, lục tìm tài sản và lấy được trong phòng ngủ tầng hai: 01 điện thoại di động hiệu Oppo A54, Trị giá: 3.512.000đ dang cắm sạc gần cửa sổ, 01 điện thoại hiệu Oppo 11 Pro màu xanh đen, trị giá: 5.250.000đ và số tiền khoảng 1.000.000đồng ở đầu giường. Tiếp tục tìm kiếm tại phòng khách tầng một, bị cáo lấy được một con heo đất màu vàng, bên trong có số tiền 26.000.000đ, rồi mang toàn bộ tài sản ra xe tẩu thoát. Qua hôm sau, bị cáo bán 01 điện thoại cho người tên H được 900.000đ. Toàn bộ số tiền có điện từ việc phạm tội, bị cáo đã tiêu xài hết. Anh Võ Phương Đ yêu cầu bồi thường toàn bộ tài sản đã mất, không thu hồi được là 35.762.000đ. Hiện M chưa bồi thường Lần 4: khoảng 23 giờ, ngày 25/11/2021, Trần Văn M điều khiển xe mô tô đến khu vực đường Phần Lăng, quận T rồi đi bộ vào một đường luồng thoát hiểm, phát hiện căn nhà của chị Lê Thục U làm chủ, không khóa cửa sau nên đột nhập vào. Tại đây, M lấy được trong phòng ngủ 01 điện thoại di động hiệu OPPO RENO 6 màu bạc, trị giá 9.992.000đ của chị U ở trên nệm, 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi K40 Pro màu đen trị giá 7.480.000đ của anh Nguyễn Văn H ở đầu giường và một heo đất, bên trong có số tiền 1.500.000đ để trên tủ nhựa. Tiếp đó, bị cáo kiểm tra ví da của anh H trong hộc bàn làm việc, lấy được số tiền 11.500.000đ rồi đem tất cả tài sản tẩu thoát. Điện thoại di động lấy được, bị cáo bán cho H được 1.100.000đ. Toàn bộ số tiền thu lợi bất chính, bị cáo tiêu xài hết. Anh H và chị U yêu cầu bồi thường số tiền 30.472.000đ. Hiện M chưa bồi thường.

Lần 5: khoảng 23 giờ, ngày 09/12/2021, M đột nhập vào cửa hàng I tại địa chỉ: 139 Đ. phường C, quận T do anh Nguyễn Quốc H làm chủ. M kiểm tra hộc tủ quầy tính tiền thì lấy được số tiền 6.266.000đ rồi tẩu thoát. Số tiền có được, M đã tiêu xài hết. Anh Nguyễn Quốc H yêu cầu bồi thường số tiền 6.266.000đ. Hiện M chưa bồi thường.

Lần 6: khoảng 23 giờ, ngày 03/01/2022, như những lần trước, từ đường luồng thoát hiểm, M đột nhập vào nhà của chị Bùi Thị C lấy trộm được 02 điện thoại di động Samsung Galaxy J7 Prime, màu xanh đen với tổng trị giá: 1.836.000đ đang cắm sạc trong phòng ngủ rồi tẩu thoát. Hai điện thoại này, bị cáo đem bán cho H được 800.000đ để tiêu xài. Do giá trị tài sản thấp nên chị Cảm không yêu cầu bồi thường.

Lần 7: khoảng 23 giờ 30 phút ngày 12/01/2022, tiếp tục từ lối thoát hiểm, M đột nhập vào nhà của chị Nguyễn Thị T C. Tại đây, M đã lấy trộm: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Note 9, màu nâu, trị giá: 2.924.242đ trên bàn ăn phòng bếp, 01 điện thoại di động hiệu Samsung S10, màu đen, trị giá: 4.418.181đ đang cắm sạc trên ghế của anh Huỳnh Anh D. Lục tiền trong túi áo của chị C để trên dây treo đồ gần bàn ăn, bị cáo lấy được số tiền 3.000.000đ và 2 tờ Đô la Mỹ mệnh giá 100 đôla, trị giá 4.704.000đ. Tiếp tục lục trong tủ rượu phòng khách, bị cáo lấy được số tiền 1.000.000đ. Sau khi trộm cắp xong, M theo lối cũ thoát ra ngoài Đến khoảng 8 giờ, ngày 13/01/2022, M đến cửa hàng điện thoại của anh Trịnh Văn H tại số 502 đường T, quận L, thành phố Đà Nẵng bán điện thoại Samsung Note 9 được 2.000.000 đồng và nhờ anh H bẻ khóa màn hình điện thoại hiệu Samsung S10 màu đen với giá 300.000đ. Trên đường về, M bị tổ tuần tra Công an tp. Đà Nẵng bắt giữ.

Tang vật thu giữ:

Thu giữ của Trần Văn M: số tiền 3.900.000đ, 02 tờ Đô la Mỹ mệnh giá 100 USD, 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A6, 01 điện thoại di động Samsung S10 và một xe mô tô BKS: 43F1-xxxxx.

Thu giữ của anh Trịnh Văn H: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Note 9 màu nâu đồng.

Quá trình điều tra đã làm rõ, vào khuya ngày 02/12/2021, Trần Văn M còn đột nhập vào căn nhà của chị Nguyễn Thị Thanh T. Tuy nhiên. M không tìm được tài sản gì có giá trị. nên đã tự ý bỏ đi và chị T không yêu cầu bồi thường gì Từ những tình tiết nêu trên, tại Cáo trạng số 50/CT-VKSCL ngày 11/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận C đã truy tố bị cáo Trần Văn M về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận C thực hiện quyền công tố phát biểu quan điểm luận tội giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Văn M từ 04 năm đến 05 năm tù giam.

Về xử lý vậ t chứng:

- Sau khi tạm giữ phục vụ định giá, cơ quan CSĐT công an quận C đã ra quyết định xử lý vật chứng trao trả cho tài sản cho chị C và anh D một điện thoại hiệu Samsung Note 9, 01 điện thoại hiệu Samsung S10 và 2 tờ tiền có mệnh giá 100USD là có cơ sở.

- Đối với số tiền 3.900.000đ, trong đó có 1.700.000đ là tiền M bán điện thoại cho anh H và 2.200.000đ là số tiền của chị C bị M chiếm đoạt. Đề nghị trả lại cho bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

- Đối với một điện thoại Samsung Galaxy A6 là tài sản cá nhân của bị cáo và không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Đối với một xe mô tô BKS: 43F1-xxxxx do ông Trần Văn Tài (sinh năm 1959, hiện đã chết) là cha ruột của bị cáo đứng tên chủ sở hữu. Sau khi ông Tài mất, các đồng thừa kế giao cho chị Thùy làm phương tiện đi lại. Chị Thùy đã giao cho M sử dụng và không biết việc M dùng làm phương tiện phạm tội. Đề nghị giao lại xe mô tô BKS: 43F1-xxxxx cho chị Thùy.

Về trách nhiệm dân sự:

- Buộc Trần Văn M bồi thường cho anh Nguyễn Hữu T H số tiền 11.144.000đ.

- Buộc Trần Văn M bồi thường cho anh Phạm Văn L số tiền 12.192.000đ.

- Buộc Trần Văn M bồi thường cho anh Võ Phương Đ số tiền 35.762.000đ.

- Buộc Trần Văn M bồi thường cho chị Lê Thục U và anh Nguyễn Văn H số tiền: 30.472.000đ.

- Buộc Trần Văn M bồi thường cho anh Nguyễn Quốc H làm chủ số tiền 6.266.000đ.

- Buộc bị cáo bồi thường cho chị C và anh D số tiền 1.800.000đ. Vấn đề khác:

- Đối với người tên H đã thu mua các tài sản do Trần Văn M phạm tội mà có thì chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên cơ quan CSĐT công an quận C nhận định tiếp tục xác minh xử lý sau là có cơ sở.

- Anh Trịnh Văn H trong quá trình giao dịch không biết hai chiếc điện thoại mà M mang đến là do phạm tội mà có, nên Cơ quan CSĐT công an quận C không đề cập xử lý là có cơ sở.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan CSĐT Công an quận C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi bị truy tố, xét xử của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn M khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và vật chứng thu hồi được, cũng như phù hợp với các tài liệu, chứng cứ mà Cơ quan CSĐT Công an quận C đã thu thập được thể hiện tại hồ sơ vụ án, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định:

Trong thời gian từ tháng 7/2021 đến tháng 01 năm 2021, trên địa bàn quận C và các quận khác thuộc thành phố Đà Nẵng, Trần Văn M là đối tượng không có nghề nghiệp, muốn có tiền tiêu xài nhưng không phải lao động, đã 07 lần đột nhập vào nhà người dân, thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản với tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 113.718.423đ. Hành vi của bị cáo Trần Văn M đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận C truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[3.1] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của các bị cáo thì thấy: bị cáo Trần Văn M là người đã thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có sức khỏe, có nhận thức pháp luật và xã hội nhất định. Tuy nhiên, vì động cơ vụ lợi, lười lao động, muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo đã bất chấp H quả, coi thường pháp luật để 07 lần thực hiện trộm cắp tài sản của người khác trên địa bàn quận C và các quận trong địa bàn tp Đà Nẵng. Hành vi của bị cáo xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ và thể hiện sự liều lĩnh, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an. Bị cáo M có nhân thân rất xấu, nhiều lần bị xử phạt về hành vi trộm cắp tài sản và cố ý gây thương tích nhưng không có ý thức sửa đổi, vẫn tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

[3.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Văn M bị áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm tội từ 02 lần trở lên” (phạm tội 07 lần) và “Tái phạm” quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 BLHS [3.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Do đó, HĐXX xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS đối với bị cáo.

Từ những phân tích trên, căn cứ vào mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng năng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử phạt bị cáo M mức án tương xứng với hành vi, phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo. Đồng thời, cần thiết áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo nói riêng và góp phần răn đe, đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói C.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Cơ quan CSĐT công an quận C đã ra quyết định xử lý vật chứng trao trả cho tài sản cho chị C và anh D: 01 điện thoại hiệu Samsung Note 9, 01 điện thoại hiệu Samsung S10 và 2 tờ tiền có mệnh giá 100USD là có cơ sở nên chấp nhận.

- Đối với số tiền 3.900.000đ, trong đó có 1.700.000đ là tiền M bán điện thoại cho anh H và 2.200.000đ là số tiền của chị C bị M chiếm đoạt. HĐXX nhận thấy:

+ Đối với số tiền 1.700.000đ là tiền M bán điện thoại cho anh H. Ngày 13/01/2022, M đến cửa hàng điện thoại của anh Trịnh Văn H bán điện thoại Samsung Note 9 được 2.000.000 đồng và nhờ anh H bẻ khóa màn hình điện thoại hiệu Samsung S10 màu đen với giá 300.000đ. Số tiền còn lại là 1.700.000đ. Anh H trong quá trình giao dịch với M không biết được tài sản do M phạm tội mà có, bị cáo cũng thừa nhận số tiền trên là của anh H nên HĐXX chấp nhận, trả lại cho anh H số tiền 1.700.000đ.

+ Đối với số tiền 2.200.000đ là số tiền của chị C và anh D. Căn cứ lời khai của chị C và anh D cũng như lời khai của bị cáo, HĐXX chấp nhận, trả lại cho chị C và anh D số tiền 2.200.000đ.

- Đối với một điện thoại Samsung Galaxy A6 là tài sản cá nhân của bị cáo và không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Đối với một xe mô tô BKS: 43F1-xxxxx do ông Trần Văn Tài là cha ruột của bị cáo đứng tên chủ sở hữu. Sau khi ông Tài mất, các đồng thừa kế giao cho chị Thùy làm phương tiện đi lại. Chị Thùy đã giao cho M sử dụng và không biết việc M dùng làm phương tiện phạm tội nên HĐXX giao lại xe mô tô BKS: 43F1-xxxxx cho chị Thùy tiếp tục quản lý, sử dụng.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

- Chị Bùi Thị C và chị Nguyễn Thị Thanh T không có yêu cầu gì thêm về phần dân sự nên HĐXX không xem xét.

- Bị cáo Trần Văn M chiếm đoạt tài sản của anh Nguyễn Hữu T H: một điện thoại di động hiệu OPPO RENO3 5G trị giá: 7.144.000đ, và số tiền: 4.000.000đ. Điện thoại sau khi chiếm đoạt được M bán cho người tên H và không thu hồi được. Toàn bộ tài sản chiếm đoạt, bị cáo đã tiêu xài hết. Anh H thống nhất với kết quả định giá và yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 11.144.000đ là có cơ sở.

- Bị cáo Trần Văn M chiếm đoạt tài sản của anh Phạm Văn L: một điện thoại di động hiệu Samsung A51 màu bạc trị giá 7.192.000đ, số tiền 5.000.000đ trong ví. Số tiền trên, bị cáo đã tiêu xài hết. Điện thoại di động hiệu Samsung A51 của anh L không thu hồi được. Anh L thống nhất với kết quả định giá và yêu cầu bồi thường số tiền 12.192.000đ là có cơ sở.

- Bị cáo Trần Văn M chiếm đoạt tài sản của anh Võ Phương Đ: 01 điện thoại di động hiệu Oppo A54 trị giá 3.512.000đ, 01 điện thoại hiệu Oppo 11 Pro màu xanh đen, trị giá 5.250.000đ, số tiền 1.000.000 đồng, một con heo đất màu vàng bên trong có số tiền 26.000.000đ. Bị cáo bán 02 điện thoại cho người tên H được 900.000đ. Toàn bộ số tiền có được từ việc phạm tội, bị cáo đã tiêu xài hết. Anh Võ Phương Đ thống nhất với kết quả định giá và yêu cầu bồi thường toàn bộ tài sản đã mất không thu hồi được là 35.762.000đ là có cơ sở.

- Bị cáo Trần Văn M chiếm đoạt tài sản của chị Lê Thục U và anh Nguyễn Văn H: 01 điện thoại di động OPPO RENO 6 màu bạc, trị giá 9.992.000đ, 01điện thoại hiệu Xiaomi K40 Pro màu đen trị giá 7.480.000đ, một heo đất bên trong có số tiền 1.500.000đ, số tiền: 11.500.000đ. Điện thoại di động lấy được, bị cáo bán cho H được 1.100.000đ. Toàn bộ số tiền trên, bị cáo tiêu xài hết. Anh H và chị U thống nhất với kết quả định giá và yêu cầu bồi thường số tiền 30.472.000đ là có cơ sở.

- Bị cáo Trần Văn M chiếm đoạt số tiền 6.266.000đ tại cửa hàng I do anh Nguyễn Quốc H làm chủ. Số tiền có được từ việc phạm tội, M đã tiêu xài hết. Anh Trần Quốc Hải yêu cầu bồi thường số tiền 6.266.000đ là có cơ sở.

- Ngoài số tài sản bị cáo Trần Văn M chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị T C và anh Huỳnh Anh D đã được hoàn trả lại, bị cáo còn chiếm đoạt số tiền 4.000.000đ và chỉ thu hồi được 2.200.000đ. Như vậy, số tiền bị cáo còn phải tiếp tục bồi thường theo yêu cầu của chị C và anh D là 1.800.000đ.

Tại phiên tòa, bị cáo thống nhất với kết quả định giá và đồng ý bồi thường cho các bị hại như trên nên căn cứ khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự, Điều 584, 585, 586, 587 và 589 Bộ luật Dân sự, HĐXX có đủ cơ sở buộc bị cáo Trần Văn M lần lượt bồi thường như sau:

- Bồi thường cho anh Nguyễn Hữu T H số tiền 11.144.000đ.

- Bồi thường cho anh Phạm Văn L số tiền 12.192.000đ.

- Bồi thường cho anh Võ Phương Đ số tiền 35.762.000đ.

- Bồi thường cho chị Lê Thục U và anh Nguyễn Văn H 30.472.000đ.

- Bồi thường cho anh Nguyễn Quốc H làm chủ số tiền 6.266.000đ.

- Bồi thường cho chị C và anh D số tiền 1.800.000đ.

Tổng số tiền bị cáo phải bồi thường cho các bị hại là: 97.636.000đ [6] Vấn đề khác - Đối với người tên H đã thu mua các tài sản do Trần Văn M phạm tội mà có, chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên cơ quan CSĐT công an quận C nhận định tiếp tục xác minh xử lý sau là có cơ sở nên chấp nhận.

- Anh Trịnh Văn H trong quá trình giao dịch không biết hai chiếc điện thoại mà M mang đến là do phạm tội mà có, nên Cơ quan CSĐT công an quận C không đề cập xử lý là có cơ sở.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo: Trần Văn M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ: điểm b, c khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: bị cáo Trần Văn M 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14 /01/2022.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự

Tuyên:

- Đối với số tiền 3.900.000đồng, trả lại cho anh Trịnh Văn H số tiền 1.700.000 đồng và trả lại cho chị C và anh D số tiền 2.200.000 đồng.

- Đối với một điện thoại Samsung Galaxy A6: trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Đối với xe mô tô BKS: 43F1-xxxxx: giao lại cho chị Trần Thị Thùy quản lý.

(Vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận C theo Quyết định chuyển vật chứng số 41/QĐ-VKSCL ngày 11/7/2022 của VKSND quận C, Biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/8/2022, Giấy nộp tiền vào tài khoản của Chi cục THADS quận C ngày 15/8/2022)

 4. Về trách nhiệm dân sự: căn cứ khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự, Điều 584, 585, 586, 587 và 589 Bộ luật Dân sự, buộc bị cáo Trần Văn M lần lượt bồi thường như sau:

- Bồi thường cho anh Nguyễn Hữu T H số tiền 11.144.000 đồng.

- Bồi thường cho anh Phạm Văn L số tiền 12.192.000 đồng.

- Bồi thường cho anh Võ Phương Đ số tiền 35.762.000 đồng.

- Bồi thường cho chị Lê Thục U và anh Nguyễn Văn H số tiền: 30.472.000 đồng.

đồng.

- Bồi thường cho anh Nguyễn Quốc H làm chủ số tiền 6.266.000 đồng.

- Bồi thường cho chị Nguyễn Thị T C và anh Huỳnh Anh D số tiền 1.800.000 Tổng số tiền bị cáo phải bồi thường cho các bị hại là: 97.636.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự.

5. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23, 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Văn M phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Trần Văn M phải chịu 4.881.800 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

6. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 55/2022/HS-ST

Số hiệu:55/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cẩm Lệ - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về