Bản án về tội trộm cắp tài sản số 54/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 54/2022/HS-PT NGÀY 23/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 6 năm 2022, tại Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 28/2022/TLST-HS ngày 14 tháng 04 năm 2022 đối với bị cáo Đỗ Thanh Q do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 21/2022/HS-ST ngày 10 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

- Bị cáo kháng cáo:

Đỗ Thanh Q; sinh năm 1982 tại thành phố Đà Nẵng. Nơi Đăng ký HKTT và nơi ở hiện nay: Đường V, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Xuân T và bà Bùi Thị K. Có vợ là Nguyễn Thị Hoài A (Đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2008. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 50 phút ngày 25/9/2021, tại đường Đ nối dài thuộc phường H, quận C, TP Đà Nẵng; Đỗ Thanh Q đang đi tập thể dục thì phát hiện xe ô tô BKS: 43C – 228.26 của ông Đinh Minh Q sáng đèn trong xe, cửa bên tài khép hờ nhưng không có người trông coi. Q mở cửa xe và lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu Apple loại Iphone 12 để trên ghế phụ đem về nhà tại đường V, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng tắt nguồn và cất giấu. Sau khi phát hiện bị mất tài sản, ông M trình báo với cơ quan Công an. Đến 22 giờ 20 cùng ngày, Công an phường Bình Hiên mời Q về trụ sở làm việc, Q khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp và giao nộp lại điện thoại di dộng của ông M và đã giao trả lại cho bị hại.

Kết luận định giá tài sản số 127/KL-HĐĐG ngày 07/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hải Châu, TP Đà Nẵng xác định: 01 điện thoại di động hiệu Apple, loại Iphone 12, số seri: QKXY0MF6P9, số Imei:

354842979099303, dung lượng 128GB, màu tím đã qua sử dụng có giá trị là 19.600.000 đồng.

Với nội dung nêu trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2022/HS-ST ngày 10/3/2022 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã quyết định: Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Đỗ Thanh Q: 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam để thi hành án.

Ngoài ra, Bản án còn tuyên về phần xử lý vật chứng, án phí và thông báo về quyền kháng cáo bản án.

Ngày 10/3/2022, bị cáo Đỗ Thanh Q có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, xin cấp phúc thẩm xem xét cho bị cáo được hưởng án treo để chăm sóc mẹ già và con nhỏ.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Đỗ Thanh Q giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Bản án hình sự sơ thẩm số: 21/2022/HS-ST ngày 10/3/2022 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Mức hình phạt 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo là phù hợp, không nặng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm có đủ căn cứ để khẳng định:

[1]. Khoảng 18 giờ 50 phút ngày 25/9/2021, tại đường Đ nối dài thuộc phường H, quận C, TP Đà Nẵng; Đỗ Thanh Q có hành vi lén lút trộm cắp 01 điện thoại di động hiệu Apple, loại Iphone 12 trị giá 19.600.000 đồng của ông Đinh Quang M khi ông M đang để điện thoại trong xe ô tô. Vì vậy có đủ cơ sở để khẳng định: Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2022/HS-ST ngày 10/3/2022 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2]. Xét đơn kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Do đó, cần phải xử phạt bị cáo một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 06 tháng tù là phù hợp. Tuy nhiên, xét bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình tố tụng đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản chiếm đoạt đã thu hồi trả bị hại, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đây là các tình tiết giảm nhẹ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định và áp dụng cho bị cáo; ngoài ra bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, cha mất sớm, mẹ già trên 72 tuổi, bị cáo là con duy nhất trong gia đình, đã ly hôn vợ, hiện đang nuôi con gái sinh năm 2008, là lao động chính trong gia đình, từ năm 2004 đến năm 2011 bị cáo tham gia dân quân tự vệ tại phường H, năm 2011 được UBND phường tặng thưởng Giấy khen vì đã hoàn thành suất sắc nhiệm vụ, đây là các tình tiết thuộc về nhân thân, điều kiện, hoàn cảnh gia đình của bị cáo chưa được Tòa án cấp sơ thẩm nhận định và áp dụng cho bị cáo.

Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, nhân thân tốt, hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, có khả năng tự cải tạo, việc không bắt bị cáo đi chấp hành hình phạt tù cũng không ảnh hưởng xấu đến công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, nên HĐXX thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng chế định án treo, cho bị cáo được cải tạo, giáo dục tại địa phương cũng đảm bảo tác dụng giáo dục. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt tù mà cấp sơ thẩm đã áp dụng nhưng cho bị cáo được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự.

[3]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4]. Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

I. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Thanh Q, sửa Bản án sơ thẩm.

Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Đỗ Thanh Q: 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là: 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm, ngày 23/6/2022.

Giao bị cáo Đỗ Thanh Q về cho Ủy ban nhân dân phường Bình Hiên, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách án treo. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể Quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

II. Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Đỗ Thanh Q không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

III. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

IV. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

470
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 54/2022/HS-PT

Số hiệu:54/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về