TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N - TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 53/2023/HS-ST NGÀY 02/03/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 02 tháng 3 năm 2023, Tòa án nhân dân thành phố N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 440/2022/TLST-HS ngày 22 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2023/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 01 năm 2023 đối với bị cáo:
Phạm Chung H - sinh ngày 25/8/1999 tại Khánh Hòa; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: tổ 19T - phường P - thành phố N - Khánh Hòa; Chỗ ở: tổ 20T - phường P - thành phố N - Khánh Hòa; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm C (chết) và bà Huỳnh Thị Q (1952); Tiền sự: Quyết định số 98/QĐ- XPHC ngày 30/4/2021, Công an phường P xử phạt 750.000đ về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; Tiền án: không;
Nhân thân:
+ bản án số 134/2017/HSST ngày 12/7/2017, Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 01 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
+ bản án số 192/2017/HSST ngày 25/9/2017, Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt 01 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” của bản án số 134/2017/HSST ngày 12/7/2017 của Tòa án nhân dân thành phố N, buộc phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 02 năm 3 tháng tù.
+ bản án số 107/2018/HSPT ngày 20/9/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xử phạt 01 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt 02 năm 3 tháng tù của bản án số 192/2017/HSST ngày 25/9/2017 của Tòa án nhan dân thành phố N, buộc phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 03 năm 9 tháng tù. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/10/2020 (được xóa án tích theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 107 của Bộ luật hình sự) + bản án số 145/2022/HSST ngày 13/5/2022, Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
+ Bản án số 171/2022/HSST ngày 01/6/2022, Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
+ Bản án số 365/2022/HSST ngày 13/12/2022, Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 02 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp với hình phạt 01 năm tù của bản án số 145/2022/HSST ngày 13/5/2022 và hình phạt 02 năm tù của bản án số 171/2022/HSST ngày 01/6/2022, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của cả 03 bản án là 05 năm 6 tháng tù; Đang chấp hành án tại Trại giam A2 - Bộ Công an; Có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: ông Lê Minh L - sinh năm 1987; Vắng mặt.
Nơi ĐKTT: 06KB - phường T - thành phố N - Khánh Hòa.
Chỗ ở: 15/6 đường M - phường P - thành phố N - Khánh Hòa
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ 30 phút, ngày 10/9/2021, Phạm Chung H một mình đi bộ xung quanh khu vực đường M - phường P - thành phố N để tìm ai để tài sản sơ hở thì trộm cắphường Khi đến nhà số 15/6 đường M, H phát hiện xe ô tô nhãn hiệu Mazda3, biển kiểm soát 79A-X của anh Lê Minh L đang đỗ dưới lòng đường mà không có người trông coi. H đến bên hông xe phía ghế phụ sau, H nhìn vào kính cửa xe thấy có một ba lô nên nảy sinh ý định trộm cắp. H dùng bật lửa (dạng lửa khò) đốt nóng tấm gương lên xuống phía sau bên phụ của xe rồi dùng nước mưa trên mui xe ô tô tạt vào nơi vừa đốt nóng làm tấm kính lên xuống vỡ. Lúc này, H đưa tay vào bên trong mở chốt khóa, sau đó, mở cạm cửa xe phía sau lấy ba lô rồi bỏ đi. H mang ba lô đến Chung cư khu vực lầu 7 - phường P - thành phố N kiểm tra bên trong có mì gói và 01 ví da màu đen bên trong có 1.800.000đ và một số vật dụng cá nhân của anh L nên H lấy tiền và lấy mì gói ra ăn, rồi vứt ba lô cùng một số vật dụng cá nhân của anh L lại rồi bỏ đi.
Đến sáng ngày 11/9/2021, H quay lại nơi đã vứt bỏ ba lô lấy lại ba lô đem đến xe ô tô của anh L đang đỗ vứt lại rồi bỏ đi. Qua truy xét, Công an mời H về trụ sở làm việc. Tại đây, H thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản như trên, toàn bộ số tiền H đã mua ma túy và sử dụng hết.
Tại cơ quan Công an, H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 378/KL-HĐĐGTS ngày 27/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố N xác định:
- 01 ba lô laptop Sakos-Cerato (kích thước 40cm x 14cm x 44cm) có giá trị 510.000đ.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 23/KL-HĐĐGTS xác định “xe ô tô Mazda3, biển kiểm soát 79A-X bị hư hỏng một phần”: Chi phí phục hồi tài sản có giá trị là 2.835.360đ.
Tại bản cáo trạng số 353/CT-VKSNT ngày 14/11/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố bị cáo Phạm Chung H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 và “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N - tỉnh Khánh Hòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; khoản 1 Điều 178; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo H từ 01 năm 6 tháng tù đến 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” và từ 01 năm tù đến 01 năm 6 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”; tổng hợp hình phạt của cả hai tội, buộc bị cáo H chấp hành hinh phạt chung từ 02 năm 6 tháng tù đến 03 năm 6 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự: đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật. Về án phí: đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo nộp án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Quá trình giải quyết vụ án, các Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng.
[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo H có đơn xin xét xử vắng mặt vì hiện nay bị cáo đang chấp hành án tại Trại giam A2, đây là lý do chính đáng của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận đơn yêu cầu xét xử vắng mặt của bị cáo. Bị hại Lê Minh L đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Tuy nhiên, hồ sơ thể hiện rõ lời khai của ông L nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt.
[3] Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để xác định tối ngày 10/9/2021, trước nhà số 15/6 đường M - phường P - thành phố N, Phạm Chung H đã dùng bật lửa dạng khò đốt vào kính phía sau bên phụ làm vỡ kính xe ô tô gây hư hỏng kính xe ô tô nhãn hiệu MAZDA, biển kiểm soát 79A-X có giá trị phục hồi tài sản là 2.835.360đ và lấy của ông Lê Minh L 01 ba lô laptop hiệu Sakos-Cerato có giá trị 510.000đ và 1.800.000đ mà ông L để trong xe ô tô nói trên. Hành vi này của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” và “Cố ý làm hư hỏng tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 và khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố bị cáo với các tội danh nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân được pháp luật hình sự bảo vệ. Bị cáo là người khỏe mạnh nhưng lười lao động mà lấy việc trộm cắp tài sản của người khác để có tiền tiêu xài cá nhân, ngoài ra bị cáo còn cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác cũng để nhằm mục đích lấy trộm tài sản, bị cáo có nhân thân xấu từng nhiều lần trộm cắp tài sản của người khác và bị xét xử nhưng bị cáo không lấy đó là bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức hình phạt thật nghiêm khắc và tổng hợp hình phạt của cả hai tội đối với bị cáo mới đảm bảo tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo để bị cáo nhận thấy được chính sách khoan hồng của Nhà nước mà yên tâm cải tạo trở thành người công dân có ích cho xã hội. Hiện nay, bị cáo đang chấp hành hình phạt tù của bản án số 365/2022/HSST ngày 13/12/2022 cần tổng hợp hình phạt của cả hai bản án đối với bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa hôm nay, bị hại Lê Minh L vắng mặt nên cần tách phần trách nhiệm dân sự giữa bị cáo H với bị hại L thành vụ kiện dân sự khác khi bị hại.
[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 290 của Bộ luật tố tụng hình sự;
Áp dụng khoản 1 Điều 173; khoản 1 Điều 178; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55; Điều 56 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Phạm Chung H.
Xử phạt: bị cáo Phạm Chung H 02 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 09 (chín) tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung của cả hai tội là 03 (ba) năm 3 (ba) tháng tù. Tổng hợp với phần hình phạt 05 (năm) năm 6 (sáu) tháng tù của bản án số 365/2022/HSST ngày 13/12/2022 của Tòa án nhân dân thành phố N, buộc bị cáo H phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 08 (tám) năm 9 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/12/2021.
Về trách nhiệm dân sự: Tách phần trách nhiệm dân sự giữa bị cáo Phạm Chung H với bị hại Lê Minh L thành vụ kiện dân sự khác khi ông L có yêu cầu.
Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Bị cáo Phạm Chung H nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 53/2023/HS-ST
Số hiệu: | 53/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về