TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 53/2022/HS-ST NGÀY 06/07/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 06 tháng 7 năm 2022, tại điểm cầu Trung tâm Tòa án nhân dân tỉnh B và điểm cầu thành phần Trại tạm giam - Công an tỉnh B, Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh B xét xử phiên tòa trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số 46/2022/HSST ngày 10 tháng 6 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2022/HSST-QĐ ngày 22 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:
* Họ và tên: Lê Quang D; Tên gọi khác: Không có; Giới tính: Nam; Sinh năm 1983;
Nơi đăng ký HKTT: thôn Bằng, xã Nghĩa Hòa, huyện G, tỉnh B; Chỗ ở hiện nay: Thôn Bằng Nguộn, xã An Hà, huyện G, tỉnh B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Họ và tên bố: Lê Quang Sáng, sinh năm 1955; Họ và tên mẹ: Hà Thị Thơm, sinh năm 1961; Gia đình có ba anh em, bản thân là thứ hai; Bị cáo chưa có vợ và con; Nhân thân, tiền sự: Không có Tiền án:
- Tại Bản án số 51 ngày 28/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh B xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/01/2020.
- Tại Bản án số 48 ngày 16/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh B xử phạt 8 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (trị giá tài sản trộm cắp dưới 2.000.000 đồng). Chấp hành án xong hình phạt tù ngày 24/11/2020.
- Tại Bản án số 07 ngày 25/02/2021 của Toà án nhân dân huyện G xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/01/2022.
Bị cáo bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/5/2022 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam, Công an tỉnh B. Bị cáo D có mặt tại phiên tòa.
* Người bị hại: Ông Đồng Văn H, sinh năm 1971 (vắng mặt) Địa chỉ: phố Bằng Nguộn, xã An Hà, huyện G, tỉnh B
* Người làm chứng: Ông Tô Văn Sáng, sinh năm 1978 (vắng mặt) Địa chỉ: phố Bằng Nguộn, xã An Hà, huyện G, tỉnh B
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lê Quang D, sinh năm 1983, đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn Bằng, xã Nghĩa Hòa, huyện G đã bị Tòa án xét xử nhiều lần về các tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích. Vào khoảng 11 giờ ngày 05/5/2022, D đi bộ lang thang từ nhà ra ngoài đường tìm tài sản của người dân sơ hở để trộm cắp. D vào trong khu vực trường tiểu học xã An Hà thấy trước cổng nhà anh Đồng Văn H, sinh năm 1971 ở thôn Phố Bằng Nguộn, xã An Hà, huyện G, tỉnh B để 01 chiếc xe đạp điện nhãn hiệu Momentum màu xanh đen, gắn biển kiểm soát 98MĐ5-011.17, chìa khoá vẫn cắm ở ổ khoá. Quan sát cổng nhà anh H khép, xung quanh không có người trông coi, D nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe trên. D tiến lại gần ngồi lên xe vặn mở khoá điện rồi điều khiển xe đi ra khỏi cổng trường và đi lên hướng Thị trấn Kép để tìm chỗ tiêu thụ. Khi đi đến khu vực tổ dân phố Đồng 3, Thị trấn Kép, huyện G, tỉnh B thì bị anh H đuổi đến giữ lại và thông báo cho công an xã An Hà đến làm việc. Công an xã An Hà đã kịp thời có mặt lập biên bản sự việc và tạm giữ chiếc xe trên đồng thời đưa D về trụ sở làm việc sau đó bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện G để điều tra giải quyết theo thẩm quyền.
Cùng ngày 05/5/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện G ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp và lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp với Lê Quang D.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 43/KL-HĐĐGTS ngày 09/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản- UBND huyện G kết luận: 01 chiếc xe đạp điện nhãn hiệu Momentum màu xanh đen, gắn biển kiểm soát 98MĐ5-011.17, cũ đã qua sử dụng có giá 1.700.000 đồng (BL 35).
Ngày 13/5/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện G ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho anh H chiếc xe đạp điện nhãn hiệu Momentum màu xanh đen; 01 chìa khoá xe. Anh H đã nhận lại tài sản, không đề nghị D phải bồi thường thiệt hại gì (BL 99-100).
Tại phiên tòa, bị cáo Lê Quang D đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của bản thân như cáo trạng truy tố. Bị cáo nhận thức hành vi của mình đã thực hiện là sai, vi phạm pháp luật và hứa cải tạo tốt, cai nghiện ma túy, sau khi chấp hành xong hình phạt tù không tái phạm.
Bản cáo trạng số 46/KSĐT ngày 09 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện G đã truy tố bị cáo Lê Quang D về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị HĐXX: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Lê Quang D từ 08 tháng đến 10 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản". Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 05/5/2022. Miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo.
Ngoài ra còn đề nghị xem xét về án phí, quyền kháng cáo của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện G, Viện kiểm sát nhân dân huyện G, điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng các quy định về thẩm quyền, trình tự tự thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án là hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo Lê Quang D tại phiên tòa đã thừa nhận bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, cụ thể: Vào khoảng 11 giờ ngày 05/05/2022, tại gia đình anh Đồng Văn H, sinh năm 1971 ở phố Bằng Nguộn, xã An Hà, huyện G, tỉnh B. Lê Quang D có hành vi trộm cắp 01 chiếc xe đạp điện nhãn hiệu Momentum màu xanh đen, gắn biển kiểm soát 98MĐ5-011.17, trị giá 1.700.000 đồng là tài sản của anh Đồng Văn H.
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp; biên bản làm việc; phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra cũng như vật chứng đã thu hồi; phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Lời khai của bị cáo cũng hoàn toàn phù hợp với thời gian và địa điểm xảy ra tội phạm. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu tài sản, lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản để bán lấy tiền mua ma túy sử dụng và chi tiêu cá nhân, giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt do trộm cắp được xác định là 1.700.000 đồng. Tuy giá trị tài sản bị cáo trộm cắp dưới 2.000.000đ, nhưng do bị cáo đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” theo các Bản án số 51/2019/HSST ngày 28/6/2019; Bản án số 48/2020/HSST ngày 16/6/2020 và Bản án số 07/2021/HSST ngày 25/02/2021 của Tòa án nhân dân huyện G, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ cơ sở cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung. Viện kiểm sát nhân dân huyện G đã truy tố bị cáo theo tội danh, điều luật trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3]. Nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên được áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Đánh giá về hành vi phạm tội của bị cáo Lê Quang D, HĐXX xét thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật nhà nước ta bảo vệ, làm mất trật tự an ninh, xã hội tại địa phương, do đó cần xử lý nghiêm, áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện, cần thiết phải bắt bị cáo cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân sống có ích cho xã hội. Khi lượng hình, HĐXX có xem xét tính chất, mức độ của hành vi, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để tuyên mức hình phạt phù hợp với bị cáo.
[4]. Hiện nay, bị cáo đang bị tạm giam, HĐXX thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày là phù hợp với Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.
[5]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội vì mục đích tư lợi, đáng lẽ phải áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền theo khoản 5 điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015. Tuy nhiên do bị cáo là người nghiện ma túy, không công ăn việc làm, không có tài sản, thu nhập nên HĐXX miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6]. Trách nhiệm dân sự: Người bị hại là anh Đồng Văn H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên không đặt ra xem xét giải quyết.
[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[8]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; Các Điều 135, 136, 331, 332, 333, 336, 337 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Căn cứ Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, nộp tiền án phí, lệ phí Tòa án;.
Xử phạt bị cáo Lê Quang D 10 (mười) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 05/5/2022. Miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo.
[2]. Về án phí: Bị cáo phải chịu số tiền 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
[3]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Án xử công khai sơ thẩm
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 53/2022/HS-ST
Số hiệu: | 53/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về