TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 53/2022/HS-ST NGÀY 13/07/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 13 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 48/2022/HSST ngày 28 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2022/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 6 năm 2022 đối với:
Bị cáo Kiều Thanh T, sinh năm 2000, tại Hà Nam; nơi cư trú: Thôn L, xã T, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Kiều Huy T và bà Trần Thị H; vợ con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Phạm Thị N - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hà Nam; có mặt.
- Bị hại: Chị Đinh Thị L, sinh năm 2002. Địa chỉ: Thôn Q, xã T, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Vũ Văn K, sinh năm 1998. Địa chỉ: Thôn Q, xã T, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
- Người làm chứng: Chị Đào Thị Thanh H, sinh năm 1987; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do có mối quan hệ quen biết từ trước với vợ chồng anh Vũ Văn K, chị Đinh Thị L nên khoảng 11 giờ ngày 08/5/2022 Kiều Thanh T sinh năm 2000, ở thôn L, xã T, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam đến cửa hàng mua bán quần áo “The Durk Store” của vợ chồng anh Vũ Văn K, chị Đinh Thị L ở thôn T, xã T, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam chơi. Đến khoảng 14 giờ, cùng ngày lợi dụng lúc anh K đi ra ngoài, chị L nằm ngủ, T quan sát thấy dưới nền nhà có 01 điện thoại di động Iphone 12 Promax vỏ màu trắng đang cắm sạc. T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản, Tân dùng tay rút dây sạc ra khỏi điện thoại, rồi bấm điện thoại sang chế dộ máy bay và cất điện thoại vào trong túi quần đang mặc sau đó đi ra ngoài, thấy trước cửa nhà có đống cát nên dùng tay bới cát, cất giấu chiếc điện thoại vừa trộm cắp được sau đó quay lại cửa hàng. Chị L dậy không thấy điện thoại đâu liền đi tìm thì thấy T ở ngoài đi vào, chị L hỏi T: “Anh có cầm điện thoại của em không”, T nói: “Anh không cầm”, gặp anh K chị L hỏi anh K: “Anh có cầm điện thoại của em không”, anh K nói: “Không”. T giả vờ cùng anh K, chị L vào cửa hàng tìm điện thoại nhưng không thấy nên chị L đến Công an xã Tân Sơn, huyện Kim Bảng trình báo. Công an tiến hành làm việc với Kiều Thanh T, T khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp chiếc điện thoại di động Iphone 12 Promax của chị L.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax màu trắng, đã qua sử dụng.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 29/KL-HĐĐGTS ngày 09/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản huyện Kim Bảng kết luận: Giá thị trường hiện tại 01 chiếc điện thoại di động Iphone 12 Promax màu trắng, đã qua sử dụng có giá trị là 22.500.000đồng.
Cáo trạng số 52/CT-VKSKB ngày 26/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam đã truy tố Kiều Thanh T về tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam giữ nguyên Cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố Kiều Thanh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 50; điểm i, điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Kiều Thanh T từ 09 tháng đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thủ thách từ 18 tháng đến 24 tháng, kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Ngoài ra Viện kiểm sát còn đề nghị về án phí, quyền kháng cáo. Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án treo thấp nhất theo đề nghị của Viện kiểm sát. Bị cáo nhất trí với cáo trạng, luận tội của Viện kiểm sát và ý kiến của người bào chữa, bị cáo không bổ sung, tranh luận gì và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Kim Bảng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp.
[2] Về tội danh: Tại phiên toà và quá trình điều tra bị cáo Kiều Thanh Tân thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời nhận tội phù hợp biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, bản kết luận định giá tài sản, lời khai của bị hại, của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa.
Có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 14 giờ ngày 08/5/2022, tại của hàng mua bán quần áo ở thôn T, xã T, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Lợi dụng sự sơ hở trong việc trông coi, quản lý tài sản của chị Đinh Thị L. Kiều Thanh T đã lén lút trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động Iphone 12 Promax màu trắng của chị Linh, trị giá 22.500.000đồng. Hành vi đó của Kiều Thanh T đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo T đã trực tiếp xâm hại đến khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ, đó là quyền sở hữu về tài sản của công dân. Bị cáo lợi dụng sự sơ hở lúc chị L ngủ, anh Khang đi ra ngoài đã lén lút chiếm đoạt chiếc điện thoại di động Iphone 12 Promax trị giá 22.500.000đồng mang ra đống cát trước cửa quán cất giấu mà chị L không hay biết tài sản của mình đang bị chiếm đoạt. Hành vi của bị cáo đã gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội.
Xét về mặt chủ quan của tội phạm, bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý.
[3] Về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.
Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản chiếm đoạt đã trả lại cho bị hại, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đó là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu.
[4] Về hình phạt:
Hình phạt chính: Khi quyết định hình phạt Toà án cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng do đó không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mà cho bị cáo được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách như đề nghị của Viện kiểm sát là phù hợp.
Hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là chị Đinh Thị L đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên về trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét, giải quyết.
[6] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều điều tra đã đã làm rõ chiếc điện thoại di động Iphone 12 Promax màu trắng, đã qua sử dụng là tài sản hợp pháp của chị Đinh Thị L nên đã trả lại cho chị Linh, do đó không đặt ra xem xét, giải quyết.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[8] Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331; Điều 332; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về hình sự: Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 50; điểm i điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự. Điều 135; Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố bị cáo Kiều Thanh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Kiều Thanh T 12 (Mười hai) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 24 (Hai mươi bốn) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Kiều Thanh T cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về án phí: Bị cáo Kiều Thanh T phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.
3. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 53/2022/HS-ST
Số hiệu: | 53/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kim Bảng - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về