Bản án về tội trộm cắp tài sản số 531/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH Đ

BẢN ÁN 531/2021/HS-ST NGÀY 13/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 13 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 507/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 9 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 530/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Ngọc Đ(Tên gọi khác: không có), sinh ngày 09 tháng 02 năm 2000 tại Cà Mau;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp 2, xã K, huyện U, tỉnh C.

Những nơi đã cư trú: Khu phố 10, phường T, thành phố B Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 07/12;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Ngọc E và con bà Võ Kim L Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con đầu. Bị cáo chưa có vợ con Tiền án: Ngày 31/7/2019 bị Tòa án nhân dân Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 26/11/2020.

Tiền sự: không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 24/3/2021. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B - (Bị cáo có mặt).

- Bị hại: Ông Trần Đức L, sinh năm 1994. – Vắng mặt HKTT: khu phố 6, phường H, thành phố B, tỉnh Đ.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Lê Thị B, sinh năm 1966- Chủ tiệm cầm đồ “Q” – Có mặt Địa chỉ: 13B/72, khu phố 11, phường H, thành phố B, tỉnh Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 23/3/2021, Nguyễn Ngọc Đsinh năm 2000 HKTT: ấp 2, xã Khánh Lâm, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau đi bộ đến cây xăng “Như Ý Ngọc” địa chỉ: Kp4A, phường R, thành phố B nhằm mục đích mua xăng, nhưng do không có tiền nên Đnảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Đđã đi ra các phòng ở phía sau cây xăng, là nơi nghỉ của nhân viên cây xăng và tài xế, nhằm tìm kiếm tài sản để trộm cắp. Đđi vào căn phòng thứ nhất thì thấy phòng trống, không có tài sản gì nên quay trở ra và tiếp tục đi đến căn phòng số hai. Tại đây Đphát hiện anh Trần Đức L sinh năm 1994, HKTT: KP6 phường Hố Nai, thành phố B là tài xế đang nằm ngủ say trên võng trong phòng, trên người (bụng) anh L có để 01 điện thoại di động hiệu VIVO 1933 có chứa 02 sim điện thoại số 033929xxxx và số 097459xxxx. Đđã lén lút trộm cắp chiếc điện thoại của anh L. Sau khi trộm cắp được, bị cáo nhanh chóng đi ra khỏi cây xăng và thuê anh Huỳnh Công Đ sinh năm 1994, HKTT: xã Thới Thạnh, huyện Bình Phú, tỉnh Bến Tre là tài xế xe ôm chở Đ đến tiệm cầm đồ “Q” thuộc KP11, phường Hố Nai, thành phố B do chị Lê Thị B sinh năm 1966 làm chủ để cầm chiếc điện thoại vừa trộm được với số tiền là 2.000.000 đồng (hai triệu đồng). Chị B đã tháo 02 sim trong điện thoại giao lại cho Đgiữ. Sau đó Đ kêu anh Đ chở Đquay lại cây xăng “Như ý Ngọc” để mua xăng thì bị anh L phát hiện bắt giữ và giao bị cáo cho Công an xử lý. Tại Cơ quan Điều tra Đđã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

- Thu giữ vật chứng và xử lý:

+ 01 điện thoại di động hiệu Vivo 1933 số IMEI 1: 867761049814451; 01 ốp lưng nhựa; 02 sim điện thoại số: 033929xxxx và 097459xxxx đã được Cơ quan điều tra hoàn trả cho bị hại.

+Tạm giữ số tiền 2.000.000 (hai triệu đồng) + 01 Biên nhận cầm đồ

+ Tại Kết luận định giá tài sản số 113/KL-HĐĐGTS ngày 24/3/2021 chiếc điện thoại di động ViVo 1933 Đđã trộm có giá là 5.453.000 đồng.

- Về dân sự: Bị hại anh L đã nhận lại tài sản nên không có yêu cầu gì khác.

Bà Lê Thị B yêu cầu bị cáo trả lại số tiền 2.000.000 đồng. Bị cáo chưa hoàn trả.

Tại Bản cáo trạng số 515/CT-VKSBH ngày 21 tháng 9 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc Đvề tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng nêu. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai trái, vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc Đphạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Đtừ 16 tháng tù đến 20 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại đối với hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án:

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 23/3/2021 tại cây xăng “Như Ý Ngọc” địa chỉ: khu phố 4A, phường T, thành phố B, bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp chiếc điện thoại VIVO 1933 trị giá 5.453.000 đồng (năm triệu bốn trăm năm mươi ba ngàn đồng) của anh Trần Đức L.

[3] Về tội danh:

Xét thấy, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình.

[4] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân, xâm phạm đến trật tự trị an xã hội tại địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, 01 tiền án, bị cáo không lấy các lần bị xử phạt trước làm bài học răn đe, cải tạo thành công dân có ích cho xã hội, bị cáo lười lao động mà bất chấp phạm tội, xem thường pháp luật. Do đó, cần phải có mức hình phạt nghiêm cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có điều kiện giáo dục các bị cáo thành người tốt cho xã hội, có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung nhưng cũng thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm vào tình tiết tái phạm quy định tại khoản điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét thấy, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về phần dân sự: Bị hại anh L đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên không đặt ra xem xét. Buộc bị cáo phải trả lại cho bà Lê Thị B số tiền 2.000.000 đồng.

[8] Về vấn đề khác:

Căn cứ Điều 46 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Tạm giữ số tiền 2.000.000 (Hai triệu đồng) để đảm bảo thi hành án.

Đối với ông Trần Văn Đức, bà Lê Thị B do không biết bị cáo có hành vi phạm tội trộm cắp tài sản nên không xem xét xử lý.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

[10] Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Đ 14 (Mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/3/2021.

2. Căn cứ các Điều 46 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Buộc bị cáo phải trả lại cho bà Lê Thị B số tiền 2.000.000 (Hai triệu đồng). Tiếp tục tạm giữ số tiền 2.000.000 (Hai triệu đồng) để đảm bảo thi hành án.

Theo biên lai thu tiền số 000336 ngày 24/9/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố B.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự: bị cáo, bà B có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 531/2021/HS-ST

Số hiệu:531/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:13/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về