Bản án về tội trộm cắp tài sản số 523/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TĐ - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 523/2021/HS-ST NGÀY 16/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 16 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án Nhân dân thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 411/2021/TLST- HS ngày 19 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 633/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn K; giới tính: Nam; sinh năm: 1995, tại Phú Yên; thường trú: Thôn Thạch Tuân 2, xã Hòa Xuân Đông, thị xã Đông Hòa, tỉnh Phú Yên; nơi cư trú: 271/2 Ngô Chí Quốc, khu phố 2, phường B, thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Phụ hồ; trình độ văn hóa: 05/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Trọng B (sinh năm 1970) và bà: Nguyễn Thị T (sinh năm 1973); Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án: 01 - Bản án số 326/2017/HSST ngày 30/10/2017 của Tòa án nhân dân quận TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 06 tháng tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/8/2019, thi hành nộp án phí ngày 15/3/2018.

Tiền sự: Không Nhân thân: Ngày 13/4/2015, bị Công an thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh bắt về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Tòa án nhân dân quận TĐ xử phạt hành chính 12 tháng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Phú Văn chữa bệnh.

Bị tạm giam từ ngày 22/12/2020 đến nay. (có đơn xin vắng mặt).

Người bị hại:

1. Ông Phan Thành D, sinh năm 2001; Địa chỉ: 251A Ngô Chí Quốc, khu phố 2, phường B, thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

2. Ông Nguyễn Xuân T, sinh năm 1986; Địa chỉ: 1155/3/7 Tỉnh Lộ 43, khu phố 2, phường B, thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Phan Thị Trúc L, sinh năm 1992; Địa chỉ: 5/49/43 Nơ Trang Long, Phường 13, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

2. Ông Trần Văn N, sinh năm 1999; Địa chỉ: 1155/3/7 Tỉnh Lộ 43, khu phố 2, phường B, thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 17/12/2020, Nguyễn Văn K gặp người bạn mới biết ngoài xã hội tên Hùng (không rõ lai lịch) tại khu vực chợ đầu mối Nông sản thực phẩm TĐ, Hùng rủ K mua ma túy sử dụng thì K đồng ý. Hùng chở K đến khu vực cầu Bình Triệu thuộc quận B, Thành phố Hồ Chí Minh gặp 01 thanh niên (không rõ lai lịch) mua 01 gói ma túy đá với giá 600.000 đồng rồi đem về phòng trọ của K, địa chỉ số 4 nhà số 271/2 Ngô Chí Quốc, Khu phố 2, phường B, thành phố TĐ cất giữ để dành sử dụng. Đến khoảng 09 giờ ngày 22/12/2020, Công an phường B kiểm tra hành chính phòng trọ của Nguyễn Văn K thì phát hiện trên nền nhà trong phòng trọ, cạnh vị trí K ngồi có 01 gói ny long bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, K khai là ma túy tổng hợp của K mua về sử dụng nên Công an phường B lập biên bản bắt người thực hiện hành vi phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong vật chứng. Kết quả test ma túy đối với Nguyễn Văn K cho kết quả dương tính ma túy tổng hợp.

Kết luận giám định 166 ngày 28/12/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói ny long bên ngoài có chữ K của Nguyễn Văn K và hình dấu công an phường Bình Chiều quận TĐ là ma túy ở thể rắn có khối lượng 0,3630g loại methamphetamine.

Kết quả điều tra còn xác định được, để có tiền tiêu xài cá nhân và mua ma túy sử dụng, từ ngày 13/10/2020 đến ngày 22/12/2020, Nguyễn Văn K thực hiện 02 vụ trộm cắp xe mô tô gắn máy trên địa bàn quận TĐ (nay là thành phố TĐ) và 01 vụ trộm cắp xe mô tô gắn máy trên địa bàn thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 06 giờ ngày 13/10/2020, K đi bộ một mình vòng quanh khu vực phường B, thành phố TĐ tìm tài sản sơ hở để trộm bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Khi đến trước dãy phòng trọ nhà số 251A đường Ngô Chí Quốc, Khu phố 2, phường B, thành phố TĐ thì K phát hiện xe mô tô Wave biển số 67E1 - X của anh Phan Thành D dựng phía trước không có người trông coi, xe không khóa nên K đi đến lén lút đẩy xe mô tô biển số 67E1 – X của anh D ra ngoài đường, rồi giật dây công tắc, đấu nối dây điện nổ máy điều khiển về phòng trọ số 4 nhà số 271/2 Ngô Chí Quốc, Khu phố 2, phường B, thành phố TĐ cất giữ. Sau đó, K tháo biển số 67E1 - X đưa đến cầu Bình Phước 2 ném bỏ xuống sông Sài Gòn rồi gắn biển số 74D1 - X vào xe rồi đem xe sơn lại màu cam để làm phương tiện đi lại đến ngày 22/12/2020 thì bị bắt.

Bản Kết luận định giá tài sản số 2708A/CV-HĐĐGTSTTTHS ngày 25/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố TĐ kết luận: 01 xe mô tô hiệu Wave màu cam biển số 67E1 – X, số máy HC12E5791956, số khung 1216DI791891 của anh Phan Thành D có giá trị 7.500.000 đồng.

Kết quả xác minh biển số 74D1 - X là xe Yamaha SIRIUS có số máy 5C63434089, số khung RLCS5630BY 434037 (không trùng khớp với xe thu giữ) do Phan Thanh P (Sinh năm 1990; HKTT: Thôn 8, xã Triệu Vân, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị) là chủ sở hữu. anh Phong khai năm 2017 bán xe cho một người thanh niên ở khu vực chợ đầu mối TĐ, không làm giấy tờ mua bán xe.

Vụ thứ hai: Khoảng 02 giờ ngày 22/12/2020, Nguyễn Văn K đi bộ một mình đến dãy phòng trọ nhà số 1155/3/7 Tỉnh lộ 43, Khu phố 2, phường B, quận TĐ (nay là thành phố TĐ) thì phát hiện xe mô tô hiệu Wave màu xanh biển số 51M6 – X của anh Nguyễn Xuân T dựng trước phòng trọ không có người trông coi. K đi đến lén lút dắt trộm xe biển số 51M6 – X ra ngoài rồi giật dây công tắc nổ máy chạy về nhà cất giữ.

Bản Kết luận định giá tài sản số 2708/CV-HĐĐGTSTTTHS ngày 25/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố TĐ kết luận: 01 xe mô tô dạng Wave màu xanh biển số 51M6 – X, số máy FMH 003885, số khung NA003957 của anh Nguyễn Xuân T có giá trị 3.000.000 đồng.

Ngoài ra Nguyễn Văn K còn khai vào khoảng giữa tháng 11/2020, K đi bộ một mình đến dãy phòng trọ nhà số 9/4/9 khu phố Đồng An 2, phường Bình Hòa, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương thì K phát hiện xe mô tô biển số 77F5 - 1011 của anh Trương Văn Dũng dựng trước phòng trọ không có người trông coi. K đi đến lấy trộm xe mô tô biển số 77F5 – 1011 dẫn ra ngoài rồi giật dây công tắc nổ máy đưa về nhà trọ của K cất giữ.

Ngày 18/3/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TĐ ra thông báo, Quyết định xử lý vật chứng, chuyển giao xe mô tô DE màu đỏ biển số 77F5 – 1011, số máy C70E 5014640, số khung C70 6414651 cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xử lý theo thẩm quyền, ngày 19/3/2021và ngày 24/3/2021, Công an Thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã nhận vật chứng đề thụ lý xác minh giải quyết vụ việc.

* Vật chứng vụ án:

- Một (01) gói niêm phong ghi vụ số 345 có chữ K giám định viên Nguyễn Thanh Điềm, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định.

- 03 đầu đoản dẹp dài 06cm, 01 cây khóa hình chữ “L” dài 12cm, 01 cây khóa hình chữ “T” dài 10cm thu của K dùng đi lấy trộm xe.

- 01 xe mô tô Wave màu cam biển số 74D1 – X, số máy CH12E5791956, số khung RLHHC1216DY791891. Kết quả minh xe mô tô số máy HC12E5791956, số khung 1216DY791891 có biển số 67E1 – X do chị Phan Thị Trúc Ly đứng tên chủ sở hữu. Ngày 18/3/2021 Cơ quan CSĐT Công an TP. TĐ ra quyết định xử lý vật chứng trả xe cho chị Phan Thị Trúc Ly.

- 01 xe mô tô Wave màu xanh biển số 51M6 – X, số máy VNAYX1P52FMH 003885, số khung VNAWCH034NA003957. Kết quả xác minh xe mô tô biển số 51M6 – X do anh Trần Văn Nhật là chủ sở hữu. Ngày 18/3/2021 Cơ quan CSĐT Công an thành phố TĐ ra Quyết định xủ lý vật chứng trả xe cho anh Trần Văn Nhật.

Về trách nhiệm dân sự: Hai người bị hại là anh Nguyễn Thành D và anh Nguyễn Xuân T đã nhận lại tài sản nên không có yêu cầu bồi thường.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Nguyễn Văn K đã khai nhận toàn bộ nội dung phạm tội như đã nêu trên là phù hợp với toàn bộ chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản Cáo trạng số 229/CT-VKS ngày 01/7/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TĐ đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 và tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Ngày 19/10/2021, bị cáo Trương Tiến Lý có Đơn xin xét xử vắng mặt. Tại phiên tòa:

Bị cáo Trương Tiến Lý có đơn đề nghị xét xử vắng mặt có xác nhận của Cơ quan quản lý tạm giữ tạm giam – Công an thành phố TĐ. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TĐ có ý kiến: xét đơn xin vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c, d Khoản 2 Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để xét xử vắng mặt đối với bị cáo.

Những người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác. Xét thấy sự vắng mặt của những người này không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên xét xử vắng mặt họ.

Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận xét xử vắng mặt bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TĐ phát biểu ý kiến giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn K về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp tàng trữ trái phép ma túy loại Methamphetamin có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249; và tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo Nguyễn Văn K có 01 bản án chưa được xóa án tích, lại tiếp tục phạm tội, ngoài ra bị cáo 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, giá trị mỗi lần trộm cắp trên 2.000.000 đồng. Do đó đề nghị áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù, tội “Trộm cắp tài sản” từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù. Tổng hợp hình phạt cho hai tội là từ 03 (ba) năm tù đến 04 (bốn) năm tù.

Vật chứng của vụ án và trách nhiệm dân sự xử lý theo quy định pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố TĐ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TĐ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Căn cứ các tài liệu chứng cứ thu thập được có đủ căn cứ kết luận hành vi phạm tội cụ thể của bị cáo như sau:

Vào khoảng 09 giờ ngày 22/12/2020, tại phòng trọ số 4 nhà số 271/2 Ngô Chí Quốc, Khu phố 2, phường B, quận TĐ (nay là thành phố TĐ), thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn K đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy ở thể rắn loại Methaphetamine có khối lượng 0,3630g để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.

Quá trình điều tra còn xác định: Vào khoảng 06 giờ ngày 13/10/2020, tại trước dãy phòng trọ nhà số 251A Ngô Chí Quốc, Khu phố 2, phường B, quận TĐ (nay là thành phố TĐ), Nguyễn Văn K thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt xe mô tô hiệu Honda Wave màu đỏ đen, biển số: 67E1 – X có giá trị 7.500.000 đồng của anh Phan Thành D đem về nhà cất giấu thì bị phát hiện thu giữ vật chứng và khoảng 02 giờ ngày 22/12/2020, tại trước dãy phòng trọ nhà số 1155/3/7 Tỉnh lộ 43, Khu phố 2, phường B, quận TĐ (nay là thành phố TĐ), Nguyễn Văn K thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt xe mô tô hiệu Honda Wave màu xanh, biển số: 51M6 - Xcó giá trị 3.000.000 đồng của anh Nguyễn Xuân T đem về nhà cất giấu thì bị phát hiện thu giữ vật chứng.

Do đó có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Văn K đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, số ma túy bị cáo tàng trữ trái phép là loại Methamphetamine có khối lượng 0,3630 gram nên thuộc trường hợp định khung quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân và làm ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương nên cần xử phạt bị cáo một hình phạt nghiêm mới đủ tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo có 01 bản án chưa được xóa án tích, lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Ngoài ra bị cáo đã 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, giá trị tài sản từng lần trộm cắp đều trên 2.000.000 đồng, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội từ 02 lần trở lên” và “Tái phạm” quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, giảm cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối với hành vi Nguyễn Văn K thực hiện vụ trộm cắp mô tô hiệu DE màu đỏ, biển số: 77F5 - 1011 của anh Trương Văn Dũng vào khoảng giữa tháng 11/2020, tại trước dãy phòng trọ nhà số 9/4/9 khu phố Đồng An 2, phường Bình Hòa, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Thành phố TĐ đã thông báo, chuyển vật chứng đến Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương để thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền.

Đối với các đối tượng Hùng và người thanh niên bán ma túy cho K hiện chưa xác định được lai lịch, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố TĐ tiếp tục xác minh, điều tra khi nào làm rõ được sẽ xử lý theo quy định.

[5] Xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

- Đối với (01) gói niêm phong ghi vụ số 345 có chữ K giám định viên Nguyễn Thanh Điềm, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định, là vật cấm cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 03 đầu đoản dẹp dài 06cm, 01 cây khóa hình chữ “L” dài 12cm, 01 cây khóa hình chữ “T” dài 10cm là dụng cụ dùng để lấy trộm xe nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 xe mô tô Wave màu cam biển số 74D1 – X, số máy CH12E5791956, số khung RLHHC1216DY791891. Qua xác minh biển số 74D1 X là xe Yamaha Sirius có số máy 5C63434089, số khung RLCS5630BY434037 (không trùng khớp với xe thu giữ) do Phan Thanh P (sinh năm 1990, HKTT: Thôn 8, xã Triệu Vân, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị) là chủ sở hữu, anh Phong không bị mất xe, anh Phong khai năm 2017 bán xe cho một người thanh niên ở khu vực chợ đầu mối TĐ, không làm giấy tờ mua bán xe. Qua xác minh, chiếc xe mô tô Wave màu cam số máy CH12E5791956, số khung RLHHC1216DY791891 có biển số là 67E1 – X do chị Phan Thị Trúc Ly đứng tên chủ sở hữu. Ngày 18/3/2021 Cơ quan CSĐT Công an TP. TĐ ra quyết định xử lý vật chứng trả xe cho chị Phan Thị Trúc Ly. Chị Ly đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với 01 xe mô tô Wave màu xanh biển số 51M6 – X, số máy VNAYX1P52FMH 003885, số khung VNAWCH034NA003957 qua xác minh chiếc xe trên do anh Nguyễn Tấn Đ đứng tên sở hữu. Anh Đạt khai năm 2012 bán xe cho một người thanh niên không quen biết, khi bán không có làm giấy mua bán xe, chỉ đưa giấy tờ xe. Anh Trần Văn Nhật khai anh N mua chiếc xe trên năm 2019 tại cửa hàng xe máy Bảy tại 855A Tỉnh Lộ 43, khu phố 5, phường Tam Bình, thành phố TĐ để sử dụng. Sau đó anh N giao xe này cho anh Nguyễn Xuân T sử dụng. Ngày 22/12/2020 anh T để xe trong dãy nhà trọ bị lấy mất. Ngày 18/3/2021 Cơ quan CSĐT Công an thành phố TĐ ra Quyết định xủ lý vật chứng trả xe cho anh Trần Văn Nhật. anh N đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với 01 (một) biển số xe 74D1 – X đây là biển số giả nên tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn K phạm các tội: “Trộm cắp tài sản” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” 2. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 và Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản” và 02 (hai) năm tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội, buộc bị cáo Nguyễn Văn K phải chấp hành hình phạt chung là: 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/12/2020.

3. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, - Tịch thu tiêu hủy (01) gói niêm phong ghi vụ số 345 có chữ K giám định viên Nguyễn Thanh Điềm, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định; 03 đầu đoản dẹp dài 06cm, 01 cây khóa hình chữ “L” dài 12cm, 01 cây khóa hình chữ “T” dài 10cm; 01 (một) biển số xe 74D1 – X.

(Theo Phiếu nhập kho số NKT2021/171 ngày 17/6/2021 và số NKT2022/09 ngày 11/10/021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh).

4. Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo Nguyễn Văn K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

5. Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Bị cáo Nguyễn Văn K, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 523/2021/HS-ST

Số hiệu:523/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về