Bản án về tội trộm cắp tài sản số 521/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 521/2023/HS-ST NGÀY 27/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở TAND Thành phố B xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số :521/ 2023/ TLST-HS ngày 11/9/2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 526/2023/QĐXXST-HS ngày 12/9/2023 đối với các bị cáo:

- Ngô H A (Tý), sinh năm 2002 tại tỉnh Đ. Nơi cư trú: Không xác định. Chỗ ở: Khu phố Bình Dương, phường Long Bình Tân, thành phố B, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Ngô Văn H (còn sống) và bà Nguyễn Thị Thu T (còn sống); Tiền án: Tại bản án số 14/2021/HSST ngày 08/01/2021 của Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt bị cáo 03 năm tù về tội “ Cướp giật tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 06/01/2023; Tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ ngày 01/6/2023, chuyển tạm giam theo lệnh tạm giam số 933/LB-CSĐT-ĐTTH ngày 09/6/2023 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B, tỉnh Đ. Hiện đang tạm giam, tạm giữ tại nhà tạm giam Công an tỉnh Đ, có mặt.

- Nguyễn Xuân H (N), sinh năm 1986 tại tỉnh Đ. Nơi cư trú: Không xác định. Hộ khẩu thường trú: 38A/5, khu phố 9, phường Tân Biên, thành phố B, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn P (đã chết) và bà Nguyễn Thị Xuân M (còn sống); Có vợ: Phan Thị Mỹ H, sinh năm 1986; Có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2014; Tiền án: Không;Tiền sự: Không; Nhân thân: Tại bản án số 664/2008/HSST ngày 20/11/2008 của Tòa án nhân dân thành phố B, xử phạt bị cáo 06(sáu) năm tù về các tội “ Cướp tài sản” và “ Cố ý gây thương tích”; Tại bản án số 426/2019/HS- ST ngày 19/9/2019 của Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt bị cáo 01 năm 04 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (kết quả phúc thẩm y án). Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 01/6/2023, chuyển tạm giam theo lệnh tạm giam. Chuyển tạm giam theo lệnh tạm giam số 932/LB-CSĐT-ĐTTH ngày 09/6/2023 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B, tỉnh Đ. Hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố B, tỉnh Đ, có mặt.

- Bị hại: Anh Trần Đình N, sinh năm 1984. Trú tại: 412/18, tổ 19, khu phố 2, phường An Hòa, thành phố B, tỉnh Đ, có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngô H A và Nguyễn Xuân H là bạn bè quen biết nhau. Khoảng 00 giờ 05 phút ngày 26-5-2023, để có tiền tiêu xài, H A nảy sinh ý định trộm cắp tài sản và rủ H cùng đi trộm cắp tài sản thì H đồng ý. Thực hiện ý định trên, H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, gắn biển số 60H1-xxxxx chở H A đến dãy nhà trọ thuộc số 994, khu phố 2, phường An Hoà, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đ rồi H A đi vào bên trong dãy trọ, còn H đứng ngoài cảnh giới. Khi H A đi vào trong khu dãy nhà trọ thì phát hiện trước phòng trọ số 3 có dựng 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển số 38C1-xxxxx của A Trần Đình Nhật (là người đang thuê trọ) đang dựng ở hành lang, không cắm chìa khoá, không có người trông coi, trên xe có 01 (Balo) đựng một số dụng cụ sửa máy lạnh nên H A đi đến vị trí chiếc xe mô tô trên, dắt chiếc xe đi ra khỏi cổng đến chỗ vị trí của H rồi H dùng 01 (Một) đoản mang theo sẵn để bẻ ổ khoá nhưng không được nên H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, gắn biển số 60H1-xxxxx đẩy H A điều khiển chiếc xe vừa trộm cắp được đến nhà của Nguyễn Quốc Đ ngụ tại số 48/2, khu phố 8A, phường Tân Biên, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đ để cất giấu. Khoảng 07 giờ cùng ngày, H đến nhà Đ, điều khiển chiếc xe vừa trộm cắp được đến khu vực gần cầu Hoá An thuộc phường Hoá An, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đ để gặp H (Không rõ họ, địa chỉ) bán chiếc mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển số 38C1-xxxxx trộm cắp được với giá 3.000.000đ (Ba triệu đồng), H chia cho H A số tiền 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng), số tiền này cả hai đã tiêu xài hết. Sự việc xảy ra, A Nhật đến Công an phường An Hoà trình báo. Qua kiểm tra hệ thống camera, Công an phường An Hoà mời H A và H về làm việc, tại đây, H A và H thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung nêu trên. Công an phường An Hoà lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà để điều tra, xử lý.

Biên bản ghi lời khai, hỏi cung bị can Ngô H A bút lục số (118-119, 121-122).

Biên bản ghi lời khai, hỏi cung bị can Nguyễn Xuân H bút lục số (164-165, 168-169, 171-172).

Biên bản ghi lời khai bị hại bút lục số (142). Vật chứng thu giữ, gồm:

- 01 (Một) đoản kim loại dài 07cm, một đầu dẹp, một đầu có cạnh lục giác là công cụ H A và H sử dụng vào việc phạm tội. Bút lục số (70).

- 01 (Một) đôi dép cao su có 02 quai ngang màu xám của Ngô H A bỏ lại hiện trường, hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà đã trả lại cho H A. Bút lục số (63, 80).

- 01 (Một) ba lô đựng 10 (Mười) mét dây điện Cadivi, 01 (Một) cuộn xi quấn ống đồng máy lạnh, 01 (Một) cây lục giác sao 6ly, 01 (Một) cờ lê 24, 02 (Hai) cờ lê 19, 01 (Một) cần tuýp tự động Tone 12,7mm, 01 (Một) cầu dao điện Lioa, 01 (Một) cây lục giác 5 ly, 02 (Hai) cây lục giác 3 ly, 01 (Một) cây lục giác 3/16 ly, 01 (Một) cây lục giác 4 ly, 01 (Một) máy khoan cầm tay Boss GSB 550 và 01 (Một) cục sạc điện thoại dự phòng UmeTravel thuộc sở hữu của A Trần Đình Nhật nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà đã thu hồi, trả lại cho A Nhật. Bút lục số (184, 188).

- 01 (Một) USB ghi lại nội dung sự việc: lưu hồ sơ vụ án. Bút lục số (197) - 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, gắn biển số 60H1-xxxxx, qua điều tra xác định H mượn 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển số 15M1-xxxxx của A Nguyễn Văn N ngụ tại TDP Tây Hải, phường Bàng La, quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng để sử dụng, sau khi mượn, H đã nhặt biển số 60H1-xxxxx ở đường gắn vào xe mô tô trên để sử dụng làm phương tiện phạm tội, còn biển số 15M1-xxxxx H đã vứt bên đường nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà không thu hồi được. A N cho H mượn chiếc xe mô tô trên để đi lại, không biết H sử dụng làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà đã thu hồi, trả lại cho A N. Đối với biển số 60H1-xxxxx xác định của A Lê Văn Phong ngụ tại ấp Sông Mây, xã Bắc Sơn, huyện Trảng Bom, tỉnh Đ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà đã trả lại cho A Phong. Bút lục số (72, 203, 210).

Đối với 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển số 38C1-xxxxx của A Trần Đình Nhật, sau khi trộm cắp được H đã bán cho H (Không rõ họ tên, địa chỉ) nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà không thu hồi được.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 300/KL-HĐĐGTS ngày 05-6-2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Biên Hoà kết luận: “01 (Một) xe mô tô, gắn máy biển số 38C1-xxxxx, 10 (Mười) mét dây điện Cadivi Vcmd 2x1,5 (2x30/0.25), 01 (Một) cuộn xi quấn ống đồng máy lạnh, 01 (Một) cây lục giác sao 6ly, 01 (Một) cờ lê 24, 02 (Hai) cờ lê 19, 01 (Một) cần tuýp tự động Tone 12,7mm, 01 (Một) cầu dao điện Lioa NL2.40A, 01 (Một) cây lục giác 5 ly, 02 (Hai) cây lục giác 3 ly, 01 (Một) cây lục giác 3/16 ly, 01 (Một) cây lục giác 4 ly, 01 (Một) máy khoan cầm tay Boss GSB 550 và 01 (Một) cục sạc điện thoại dự phòng UmeTravel 10.000mAh có tổng giá trị định giá tài sản là 16.851.660đ (Mười sáu triệu tám trăm năm mươi mốt nghìn sáu trăm sáu mươi đồng)”. Bút lục số (48-49).

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 447/KL-HĐĐGTS ngày 23-8-2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Biên Hoà kết luận: “01 (Một) ba lô có giá trị định giá tài sản là 60.000đ (Sáu mươi nghìn đồng)”.

Bút lục số (60-61).

Trách nhiệm dân sự: A Trần Đình Nhật đã nhận được 01 (Một) chiếc balo đựng dụng cụ sửa máy lạnh, chưa nhận lại chiếc xe mô tô bị mất nên yêu cầu các bị cáo bồi thường theo quy định pháp luật. Bút lục số (173-174).

Tại cáo trạng số 503/CT-VKSBH, ngày 31/8/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố các bị cáo Ngô H A và Nguyễn Xuân H về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa các bị cáo trình bày: Các bị cáo đồng ý với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố và đồng ý bồi thường cho bị hại số tiền 15.960.000đ là trị giá xe mô tô Honda Wave RSX biển số 38C1-xxxxx của A Trần Đình Nhật.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên các bị cáo Ngô H A và Nguyễn Xuân H về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xét về tình tiết tăng nặng:Đối với bị cáo Ngô H A thuộc trường hợp tái phạm, định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự;

Xét về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình làm việc và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải;

Về mức hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Ngô H A từ 18 đến 20 tháng tù; Bị cáo Nguyễn Xuân H từ 12 đến 14 tháng tù.

Về các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 01 đoản kim loại dài 07cm, một đầu dẹp, một đầu có cạnh lục giác là công cụ các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội. Về dân sự buộc các bị cáo có nghĩa vụ liên đới bồi thường trị giá xe mô tô Honda Wave RSX biển số 38C1-xxxxx cho A Trần Đình Nhật với số tiền theo kết luận định giá là 15.960.000đ.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra công khai và kết quả trA luận tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua quá trình điều tra và tại phiên tòa, lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ và các chứng cứ khác, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và bị hại không kH nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Thực tế có cơ sở chứng minh, Khoảng 00 giờ 05 phút ngày 26-5-2023, tại trước phòng trọ số 3 thuộc dãy nhà trọ số 994, khu phố 2, phường An Hoà, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đ, Ngô H A và Nguyễn Xuân H đã có hành vi trộm cắp 01 (Một) xe mô tô, gắn máy biển số 38C1-xxxxx, 10 (Mười) mét dây điện Cadivi Vcmd 2x1,5 (2x30/0.25), 01 (Một) cuộn xi quấn ống đồng máy lạnh, 01 (Một) cây lục giác sao 6ly, 01 (Một) cờ lê 24, 02 (Hai) cờ lê 19, 01 (Một) cần tuýp tự động Tone 12,7mm, 01 (Một) cầu dao điện Lioa NL2.40A, 01 (Một) cây lục giác 5 ly, 02 (Hai) cây lục giác 3 ly, 01 (Một) cây lục giác 3/16 ly, 01 (Một) cây lục giác 4 ly, 01 (Một) máy khoan cầm tay Boss GSB 550 và 01 (Một) cục sạc điện thoại dự phòng UmeTravel 10.000mAh có tổng giá trị định giá tài sản là 16.851.660đ (Mười sáu triệu tám trăm năm mươi mốt nghìn sáu trăm sáu mươi đồng) và 01 (Một) ba lô có giá trị định giá tài sản là 60.000đ (Sáu mươi nghìn đồng) của A Trần Đình Nhật thì H A và H bị bắt giữ.

Tổng giá trị tài sản H A và H trộm cắp là 16.911.660đ (Mười sáu triệu chín trăm mười một nghìn sáu trăm sáu mươi đồng).

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ. Như vậy, đã đủ cơ sở nên có căn cứ kết luận các bị cáo phạm tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

[4] Xét về vai trò của từng bị cáo: Bị cáo Ngô H A là người rủ rê, tích cực thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo Nguyễn Xuân H là người giúp sức tích cực thực hiện hành vi phạm tội.

[5] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo A là người đã có tiền án chưa được xóa án tích; Bị cáo H là người có nhân thân xấu. Tuy nhiên tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

Xét thấy cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo và giáo dục bị cáo có ý thức tuân thủ pháp luật.

[6] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 đoản kim loại dài 07cm, một đầu dẹp, một đầu có cạnh lục giác là công cụ các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

[7] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Buộc các bị cáo có nghĩa vụ liên đới bồi thường trị giá xe mô tô Honda Wave RSX biển số 38C1-xxxxx cho A Trần Đình Nhật với số tiền theo kết luận định giá là 15.960.000đ (mỗi bị cáo bồi thường 7.980.000đ).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 (chỉ áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52 đối với bị cáo Ngô H A); Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

- Tuyên bố các bị cáo: Ngô H A và Nguyễn Xuân H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Xử phạt bị cáo Ngô H A 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/6/2023.

+Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân H 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/6/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 đoản kim loại dài 07cm, một đầu dẹp, một đầu có cạnh lục giác (vật chứng chi cục thi hành án dân sự thành phố B đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng đề ngày 12/9/2023).

3. Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Căn cứ các Điều 584, 585 và 589 Bộ luật dân sự năm 2015: Buộc các bị cáo Ngô H A và Nguyễn Xuân H có nghĩa vụ liên đới bồi thường cho A Trần Đình Nhật số tiền 15.960.000đ (mười lăm triệu chín trăm sáu mươi nghìn đồng)[Mỗi bị cáo bồi thường 7.980.000đ].

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án không thi hành số tiền trên thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

4. Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về việc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và mỗi bị cáo phải nộp 400.000đ(bốn trăm nghìn đồng) án phí DSST.

5. Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày. Người có mặt tính từ ngày tuyên án. Người vắng mặt tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 521/2023/HS-ST

Số hiệu:521/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về