Bản án về tội trộm cắp tài sản số 51/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 51/2022/HS-ST NGÀY 27/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 34/2022/TLST-HS ngày 12 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2022/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 6 năm 2022, đối với bị cáo:

NGUYỄN NGỌC T; sinh năm: 1987 tại Đắk Lắk; Hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố H, phường B, thị xã Y, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 5/12; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông: Nguyễn Ngọc Q (đã chết); con bà: Đỗ Thị B; vợ: không có; con: không có; Tiền án: Ngày 09/11/2007, T bị Công an quận Gò Vấp bắt hành vi trộm cắp tài sản, ngày 27/6/2008 T bị Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm về tội trộm cắp tài sản (bản án số 338/2008/HSPT), xử phạt 09 tháng tù giam. Ngày 09/8/2008 T chấp hành xong án phạt tù tại Trại tạm giam Chí Hòa. T đã đóng án phí hình sự sơ thẩm 50.000 đồng. Ngày 23/3/2009 T bị Công an quận Tân Phú bắt hành vi trộm cắp tài sản, ngày 04/9/2009 T bị Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm về tội trộm cắp tài sản (bản án số 1663/2009/HSPT), xử phạt T 01 năm 06 tháng tù giam. Ngày 21/9/2008, T thực hiện hành vi cố ý gây thương tích tại quận Gò Vấp, ngày 13/7/2009, Công an quận Gò Vấp ra quyết định truy nã bị can Nguyễn Ngọc T (lúc này T đang thụ án 01 năm 06 tháng tù tội trộm cắp tại Trại tạm giam Chí Hòa). Ngày 07/12/2010 T bị Toà án nhân dân quận Gò Vấp xét xử sơ thẩm về tội cố ý gây thương tích (bản án số 280/2010/HSST), xử phạt T 03 năm tù giam, tổng hợp hình phạt với bản án số 1663/2009/HSPT là 04 năm 06 tháng tù giam. Ngày 23/9/2013 T chấp hành xong án phạt tù tại Trại giam Xuyên Mộc. T đã đóng 400.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm của hai bản án. Ngày 16/10/2013 T bị Công an quận Tân Bình bắt hành vi trộm cắp tài sản, ngày 13/3/2014 T bị Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm về tội trộm cắp tài sản (bản án số 47/2014/HSST), xử phạt Tài 04 năm tù giam. Ngày 16/5/2017 T chấp hành xong án phạt tù tại Trại giam Thủ Đức. T đã đóng 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Ngày 05/7/2018, T bị Công an Quận 12 bắt hành vi trộm cắp tài sản, ngày 25/01/2019 T bị Toà án nhân dân Quận 12 xét xử sơ thẩm về tội trộm cắp tài sản (bản án số 14/2019/HSST), xử phạt T 02 năm 06 tháng tù giam. Ngày 05/01/2021 T chấp hành xong án phạt tù tại Trại giam Tống Lê Chân; Tiền sự: Không; Áp dụng biện pháp ngăn chặn: bị cáo bị tạm giam ngày 15/12/2021 (Có mặt).

- Bị hại: Chị Nguyễn Thị Ngọc Q – sinh năm 1996;

Địa chỉ: Chung cư UU, phường T, quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do hết tiền tiêu xài nên khoảng 11 giờ 00 phút ngày 14/12/2021, H (không rõ lai lịch) rủ Nguyễn Ngọc T đi trộm cắp xe máy. H điều khiển xe máy tay ga màu xanh (không rõ loại xe, không rõ biển số) chở T ngồi sau đi qua nhiều tuyến đường trên địa bàn Phường 15, quận Tân Bình tìm kiếm xe máy sơ hở để trộm cắp. Khi đi đến trước nhà số 42D H, Phường MX, quận X, T và H phát hiện một xe Honda Blade màu đỏ đen mang biển số 63P1 – 186.aa của chị Nguyễn Thị Ngọc Q đang được dựng trước nhà không có người trông coi. H dừng xe, đậu bên lề đường đối diện để cảnh giới và lấy đoản sắt đã chuẩn bị sẵn (công cụ mở nắp từ và bẻ ổ khóa xe máy) đưa cho T. Sau đó, T lén lút đi bộ tiếp cận xe máy và dùng đoản tự chế mở được công tắc xe, khởi động xe tẩu thoát về hướng Bình Dương. Trên đường tẩu thoát, T thay đổi trang phục để tránh bị phát hiện.

Đến khoảng 16 giờ 30 phút ngày 14/12/2021, khi T điều khiển xe Honda Blade trộm cắp được của chị Q đi đến trước số nhà 41/1F/9 đường BH, phường BX, thành phố TX, tỉnh Bình Dương thì bị bạn của chị Q qua truy vết theo định vị trên xe, truy đuổi đến bắt giữ T giao cho Công an xử lý.

Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 212/HĐĐGTS-TTHS ngày 24/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự: tại thời điểm tháng 12/2021, xe gắn máy 02 bánh hiệu Honda Blade (Việt Nam), biển số 63P1-186.aa, màu đỏ - đen, số máy JA36E0XXXXXX, số khung 3637GYYYYYYY, dung tích xi lanh 109 cc, đăng bộ tháng 12/2017, xe đã qua sử dụng, máy còn nguyên thủy, chất lượng máy còn lại khoảng 60% có giá trị là 14.000.000 đồng.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Nguyễn Ngọc T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng vụ án:

- 01 USB và 01 đĩa DVD chứa dữ liệu ghi nhận Nguyễn Ngọc T thực hiện hành vi trộm cắp tài sản;

- 01 xe máy hiệu Honda Blade màu đỏ đen, biển số 63P1 – 186.aa. Kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự quận Tân Bình xác định xe có trị giá 14.000.000 đồng đã trả lại cho bị hại là chị Nguyễn Thị Ngọc Q.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1034 có số IMEI: 359014098016734 thu giữ của T.

- Thanh kim loại có một đầu hình lục giác, một đầu mài dẹp dài 7cm (đoản bẻ khóa xe máy).

- Thanh kim loại có một đầu hình lục giác, một đầu mài dẹp dài 9cm (đoản bẻ khóa xe máy).

- Thanh kim loại màu trắng hình chữ L (tay đòn để cắm vào đoản bẻ khóa xe máy).

- 01 trụ kim loại màu vàng hình chữ nhật dài 3cm (bên ngoài quấn băng keo màu đen, dụng cụ mở nắp từ xe máy).

Tại bản cáo trạng số 36/CT-VKS-TB ngày 10 tháng 5 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Trong phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời, nêu các tình tiết giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù. Về vật chứng thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

- Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan cảnh sát điều tra, lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Sau phần luận tội của Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận, bào chữa bổ sung mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc T, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với bản Kết luận điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của bị hại, người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu, chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Ngọc T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 xe máy hiệu Honda Blade có giá trị là 14.000.000 đồng của chị Nguyễn Thị Ngọc Q trước số nhà 42D H, Phường MX, quận X vào ngày 14/12/2021. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được qui định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là vi phạm pháp luật và gây nguy hiểm cho xã hội, vừa trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của tổ chức, cá nhân được Nhà nước và pháp luật bảo hộ, vừa gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo đã thành niên, nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác bị pháp luật nghiêm cấm và bị trừng trị nhưng do động cơ tư lợi nên bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm một cách liều lĩnh, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Bị cáo đã bị kết án về tội Trộm cắp tài sản với tình tiết "Tái phạm", chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội, lần phạm tội này của bị cáo được xác định là “Tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần có hình phạt thật nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết: bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Việc đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình căn cứ tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo để đề nghị áp dụng các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 khi xét xử bị cáo là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không có ý kiến hay yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về vật chứng vụ án:

- 01 USB và 01 đĩa DVD chứa dữ liệu ghi nhận Nguyễn Ngọc T thực hiện hành vi trộm cắp tài sản cần lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

- 01 xe máy hiệu Honda Blade màu đỏ đen, biển số 63P1 – 186.aa. Kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự quận Tân Bình xác định xe có trị giá 14.000.000 đồng đã trả lại cho bị hại là chị Nguyễn Thị Ngọc Q. Chị Q không có yêu cầu bồi thường gì.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1034 có số IMEI: 359014098016734 thu giữ của T. Bị cáo khai điện thoại dùng để liên lạc với gia đình, không dùng để bàn bạc với H. Xét thấy điện thoại di động là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.

- Bộ dụng cụ đoản bẻ khóa xe máy thu giữ trong người của Nguyễn Ngọc T bao gồm: 01 thanh kim loại có một đầu hình lục giác, một đầu mài dẹp dài 7cm;

01 thanh kim loại có một đầu hình lục giác một đầu mài dẹp dài 9cm; 01 thanh kim loại màu trắng hình chữ L (tay đòn để cắm vào đoản bẻ khóa xe máy); 01 trụ kim loại màu vàng hình chữ nhật dài 3cm (bên ngoài quấn băng keo màu đen, dụng cụ mở nắp từ xe máy). Xét thấy đây là những công cụ bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu và tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ Điều 106, Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; [1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo : Nguyễn Ngọc T 03 (Ba) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 15/12/2021.

[2] - Lưu hồ sơ vụ án 01 USB và 01 đĩa DVD chứa dữ liệu ghi diễn biến vụ việc bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản (được niêm phong bên ngoài có dấu của Công an Phường 15, quận Tân Bình).

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1034 có số IMEI:

359014098016734.

- Tịch thu và tiêu hủy: 01 thanh kim loại có một đầu hình lục giác, một đầu mài dẹp dài 7cm; 01 thanh kim loại có một đầu hình lục giác, một đầu mài dẹp dài 9cm; 01 thanh kim loại màu trắng hình chữ L; 01 trụ kim loại màu vàng hình chữ nhật dài 3cm (bên ngoài quấn băng keo màu đen);

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 29/PNK ngày 15/3/2022 của Đội Cảnh sát Thi hành án hình sự và Hỗ trợ tư pháp - Công an quận Tân Bình).

[3] Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

104
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 51/2022/HS-ST

Số hiệu:51/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về