TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM TÂN, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 51/2021/HS-ST NGÀY 17/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 17 tháng 9 năm 2021 tại Hội trường xét xử TAND huyện H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 54/2021/TLST-HS ngày 01/9/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2021/QĐXXST-HS ngày 06/9/2021 đối với bị cáo:
VÕ VĂN H, (Tên gọi khác: Nhí), sinh năm 1997 tại tỉnh B;
Nơi cư trú: Khu phố 6, thị trấn T, huyện H, tỉnh B.
Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;
Con ông: Võ C (chết) và bà Trần Thị T;
Gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con út; Vợ: Lý Song S (đã ly lôn); con: Chưa có Tiền án:
+ Ngày 12/7/2017 bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh B xử phạt 06 tháng tù về tội ‘Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 20/2017/HSST ngày 12/7/2017.
+ Ngày 15/11/2017 bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh B xử phạt 24 tháng tù về tội ‘Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 37/2017/ HSST ngày 15/11/2017. Tổng hợp hình phạt của Bản án số 20/2017/HSST ngày 12/7/2017, bị cáo Hiển phải chấp hành hình phạt là 30 tháng tù. Bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 22/11/2019.
Tiền sự: Không; Nhân thân:
+ Ngày 13/02/2014 bị Công an thị trấn T xử phạt 750.000đ về hành vi “Đánh bạc” tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 24/QĐ-XPVPHC ngày 13/02/2014;
+ Ngày 28/3/2014 bị Ủy ban nhân dân thị trấn T xử phạt 1.250.000đ về hành vi “Xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người thi hành công vụ” tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 37/QĐ-XPVPHC ngày 28/3/2014;
+ Ngày 01/8/2014 bị Công an thị trấn T xử phạt 1.500.000đ về hành vi “Trộm cắp tài sản” tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 62/QĐ- XPVPHC ngày 01/8/2014.
Bị cáo tại ngoại, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
* Người bị hại: Bà Trần Thị Kiều O, sinh năm 1976 (Có mặt) Địa chỉ: Khu phố 2, thị trấn T, huyện H, tỉnh B.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ ngày 01/5/2021, trong lúc đến trại gà của anh Nguyễn Phúc N thuộc khu phố 2, thị trấn T, huyện H, tỉnh B để chơi thì H thấy phía sau nhà chị Trần Thị Kiều O (cách trại gà của anh N 100m) có dựng 01 xe mô tô BKS 60V4-1965 hiệu Havico không có người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp để bán lấy tiền tiêu xài. Thực hiện ý định, H lén lút đi qua dắt xe mô tô 60V4-1965 ra ngoài giấu ở đám đất phía sau, cách nhà chị O khoảng 100m. Sau đó H leo tường rào đột nhập vào nhà chị Lê Thị Kim P (đối diện trại gà của anh N) nhằm mục đích tìm tài sản để trộm cắp, khi H vừa vào đến hiên nhà, chưa trộm được gì thì bị chị P phát hiện nên bỏ chạy về nhà. Nghe có trộm, chị O kiểm tra tài sản thì phát hiện bị mất xe nên đi tìm xung quanh, và tìm thấy xe mô tô BKS 60V4-1965 được giấu trong đám đất phía sau nhà, nên nhờ người dân đưa về và trình báo Công an thị trấn T. Đến sáng ngày 02/5/2021 khi bị Công an thị trấn T mời lên làm việc thì H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Theo Bản kết luận định giá tài sản số 26/KL-HĐĐGTS ngày 21/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện H kết luận giá trị của xe mô tô hiệu Havico BKS 60V4-1965 có giá 1.500.000 đồng.
Vật chứng của vụ án: Xe mô tô hiệu Havico BKS 60V4-1965 đã được Cơ quan điều tra giao trả lại cho chị Trần Thị Kiều O;
Về trách nhiệm dân sự: Chị O đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về phần dân sự.
Cáo trạng số 57/CT-VKS ngày 30/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H đã truy tố bị cáo Võ Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện H đã truy tố và thống nhất với các điều khoản mà Viện kiểm sát nhân dân huyện H đã viện dẫn trong Cáo trạng.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H giữ quyền công tố luận tội và tranh luận đã phân tích hành vi phạm tội của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” như nội dung Cáo trạng, đồng thời xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ khi quyết định mức hình phạt đối với bị cáo. Đề nghị: Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Võ Văn H từ 12 tháng đến 18 tháng tù.
* Ý kiến của bị cáo: Bị cáo đồng ý với nội dung và tội danh mà Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện H đã truy tố, tuy nhiên xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử.
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến, hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai và các tài liệu chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra vụ án, đã có đủ cơ sở xác định:
Vào ngày 01/5/2021, bị cáo Võ Văn H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt xe mô tô hiệu Havico BKS 60V4-1965 của chị Trần Thị Kiều O tại khu phố 2, thị trấn T, huyện H, tỉnh B. Giá trị của tài sản bị chiếm đoạt là 1.500.000 đồng.
Tại các biên bản ghi lời khai của bị cáo, bị hại; biên bản hỏi cung; lời khai bị cáo tại phiên tòa đều thống nhất hành vi của bị cáo đúng như Cáo trạng đã nêu.
Bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác với giá trị là 1.500.000 đồng, mặc dù giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới hai triệu đồng nhưng bị cáo H đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; Hành vi của bị cáo xâm phạm khách thể được Luật Hình sự bảo vệ là quyền sở hữu tài sản của công dân. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Như vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật
[3] Bị cáo Võ Văn H nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật. Nhưng với bản tính chây lười lao động, bị cáo đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác. Bị cáo đã từng bị xử phạt hành chính cũng như bị kết án về hành vi “Trộm cắp tài sản”, nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân, sửa đổi để trở thành người có ích cho xã hội mà tiếp tục phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Vì vậy cần phải dành cho bị cáo mức án thật nghiêm khắc, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện để răn đe đối với bị cáo cũng như phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại được tài sản và không có yêu cầu gì về phần dân sự nên HĐXX không xem xét.
[5] Về tình tiết tăng nặng: Không có.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi thực hiện hành vi phạm tội cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[7] Về vật chứng vụ án: Xe mô tô hiệu Havico BKS 60V4-1965 đã được Cơ quan điều tra giao trả lại cho chị Trần Thị Kiều O là phù hợp nên HĐXX không xem xét.
[8] Đối với hành vi bị cáo vào nhà chị Lê Thị Kim P để tìm tài sản trộm cắp, hành vi này chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên CQĐT không xem xét xử lý là phù hợp.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Võ Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Võ Văn H 01 (một) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Án phí: Áp dụng: Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Bị cáo Võ Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai, báo cho bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 51/2021/HS-ST
Số hiệu: | 51/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hàm Tân - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về