Bản án về tội trộm cắp tài sản số 50/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 50/2022/HS-PT NGÀY 26/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xét xử phúc thẩm công khai trực tuyến vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 68/2022/TLPT-HS ngày 09 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo Trần Văn S do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 61/2022/HS-ST ngày 02 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Yên S, tỉnh Tuyên Quang.

Bị cáo có kháng cáo:

Trần Văn S, sinh ngày 08 tháng 3 năm 1985 tại tỉnh Tuyên Quang;

Nơi cư trú: Thôn C, xã N, huyện Yên S, tỉnh Tuyên Quang;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Trần Minh P, sinh năm 1954 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1954; có vợ Đinh Thị M, sinh năm 1984 và 03 con; Tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân:

- Quyết định số 254/QĐ-XPHC ngày 21/11/2019, Công an huyện Yên S xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản, hình thức: Phạt tiền (đã nộp phạt ngày 19/12/2019);

- Quyết định số 04/QĐ-XPHC ngày 07/01/2020, Công an huyện Yên S xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép pháo, hình thức phạt tiền (đã nộp phạt ngày 10/01/2020);

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 05/4/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang; có mặt.

Ngoài ra trong vụ án còn có 01 bị hại và 02 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do muốn trồng cây Mộc Hương làm cảnh, sáng ngày 04/3/2022, Trần Văn T, trú tại thôn C, xã N, huyện Yên S, tỉnh Tuyên Quang đi đến khu vực xã M, huyện Yên S tìm kiếm xem nhà nào có cây Mộc Hương có sơ hở thì trộm cắp về trồng. Khi T đến vườn cây của anh Đỗ Văn M, thôn Tân Thành, xã M, huyện Yên S, thấy trong vườn nhà anh M trồng nhiều cây Mộc Hương, lối vào vườn không có cổng, rào nên T nảy sinh ý định trộm cắp cây tại vườn của anh M.

Khoảng 00 giờ ngày 05/3/2022, T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 22B2-178.24 (xe của T) đi đến nhà anh trai là Trần Văn S (trú cùng thôn), T rủ S đi trộm cắp cây Mộc Hương về trồng, S đồng ý. Khoảng 0 giờ 20 phút cùng ngày, T điều khiển xe mô tô chở S đến vườn của anh M, khi đến nơi quan sát thấy vườn cây không có người trông coi, T, S xuống xe rồi đi vào vườn cây, dùng tay nhổ 06 cây Mộc hương ta (chiều cao từ 2,2m đến 3,74m, đường vanh từ 13cm đến 23cm) được trồng trong 06 bồn cát được quây bằng xi măng, T và S dùng tay xé lớp lưới bọc bầu cây, bửa bớt đất của bầu cây rồi di chuyển cây ra vị trí dựng xe mô tô sau đó đặt cây lên yên xe, S ngồi sau ôm 06 cây Mộc Hương, T điều khiển xe chở S cùng 06 cây Mộc Hương vừa trộm cắp được về nhà T, khi về dến nhà T lúc đó khoảng 01 giờ 30 phút cùng ngày. Sau khi chuyển 06 cây Mộc Hương vừa trộm cắp được về để ở nhà T, S đi bộ về nhà, T cất giấu 06 cây Mộc hương vào trong vườn cỏ của gia đình. Đến khoảng 06 giờ cùng ngày,T mang 06 cây Mộc Hương trên lên vườn keo của gia đình để trồng. Sau khi phát hiện bị mất cây, anh Đỗ Văn M đến Công an xã M trình báo.

Tại Kết luận định giá tài sản số 06 ngày 16/3/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên S kết luận: Tổng trị giá 06 cây Mộc Hương ta do T và S trộm cắp của gia đình anh M là 53.166.664 đồng (Năm mươi ba triệu một trăm sáu sáu nghìn sáu trăm sáu mươi tư đồng).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 61/2022/HS-ST ngày 02 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Yên S, tỉnh Tuyên Quang đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn T và Trần Văn S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ: Điểm c khoản 2 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Trần Văn S 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam (ngày 05/4/2022).

- Căn cứ: Điểm c khoản 2 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự; Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự:

Xử phạt bị cáo Trần Văn T 02 (Hai) năm tù, cho hưởng án treo, thử thách 04 (Bốn) năm. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (02/8/2022).

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 12/8/2022 bị cáo Trần Văn S có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang phát biểu quan điểm:

Về thủ tục tố tụng đảm bảo đúng quy định pháp luật, đơn kháng cáo của bị cáo hợp lệ trong hạn luật định; thủ tục giải quyết vụ án đúng trình tự tố tụng.

Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết liên quan đến vụ án trên cơ sở các tài liệu chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, đánh giá vai trò, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ để xét xử bị cáo Trần Văn S 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản là đúng người, đúng tội. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không xuất trình tài liệu, chứng cứ cho nội dung kháng cáo, xét thấy mức án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự: Xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn S, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 61/2022/HS-ST ngày 02 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Yên S, tỉnh Tuyên Quang. Căn cứ Điểm c khoản 2 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Văn S 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam (ngày 05/4/2022).

Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Văn S tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra; tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ 00 giờ 20 phút đến 01 giờ 30 phút ngày 05/3/2022, tại vườn cây của gia đình anh Đỗ Văn M, thôn Tân Thành, xã M, huyện Yên S, tỉnh Tuyên Quang, các bị cáo Trần Văn T và Trần Văn S đã có hành vi trộm cắp của gia đình anh M 06 cây Mộc Hương ta có trị giá là 53.166.664 đồng (Năm mươi ba triệu một trăm sáu sáu nghìn sáu trăm sáu mươi tư đồng).

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh trật tự tại địa phương và trực tiếp xâm phạm vào quyền sở hữu đối với tài sản của người khác. Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về Trộm cắp tài sản theo khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Văn S, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn S 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về Trộm cắp tài sản là tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo có nhân thân xấu đã từng bị xử phạt hành chính nhiều lần. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không xuất trình tài liệu, chứng cứ cho nội dung kháng cáo. Do vậy, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, cần giữ nguyên hình phạt của Bản án sơ thẩm như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp pháp luật.

[4] Về hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[5] Bị cáo Trần Văn S phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn S, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 61/2022/HS-ST ngày 02 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Yên S, tỉnh Tuyên Quang về phần hình phạt đối với bị cáo Trần Văn S như sau:

Căn cứ: Điểm c khoản 2 Điều 173, điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Văn S 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam (ngày 05/4/2022).

Về án phí: Bị cáo Trần Văn S phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (26/9/2022)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

105
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 50/2022/HS-PT

Số hiệu:50/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về