TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 50/2021/HSST NGÀY 11/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 11 tháng 3 năm 2021 tại phòng xử án Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 35/2021/HSST ngày 05/02/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2021/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:
Nguyễn Quang B; giới tính: nam; sinh năm: 1987 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: 32/18/24 A, Phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độc học vấn: 01/12; nghề nghiệp: không; con ông Trương Bé B và bà Nguyễn Thị H (chết).
Tiền án: ngày 15/11/2008, bị Công an huyện Bình Chánh bắt về tội “Cướp tài sản”. Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xử phạt 05 năm tù giam theo bản án số 145/2009/HSST ngày 14/5/2009. Ra tù ngày 30/8/2011 và chưa đóng án phí.
Tiền sự: ngày 17/8/2018, bị Tòa án nhân dân Quận 8 ra Quyết định số 379 áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Ngày 20/01/2020 chấp hành xong.
Tạm giam: 04/12/2020 (có mặt) Bị hại: ông Lương Đức P; sinh năm: 1992; địa chỉ: 157 A, phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 02 giờ 45 phút ngày 01/11/2020, Nguyễn Quang B (sống lang thang) đi vào Bệnh viện nhân dân Gia Định (số 01 Nơ Trang Long, phường 7, quận Bình Thạnh) để tìm chỗ ngủ qua đêm. Khi đến khoa chống độc, bệnh viện nhân dân Gia Định, B phát hiện anh Lương Đức P đang nằm trên giường bệnh ngoài hành lang có để điện thoại di động hiệu Iphone 6S 16GB bên trong phía tường và số tiền 3.000.000 đồng dưới gối ngủ. Lợi dụng xung quanh không có ai, anh P ngủ say nên B đã lén lút dùng tay phải để lấy trộm điện thoại Iphone 6S của anh P bỏ vào túi quần và ngồi hút thuốc ở đầu giường kế bên nơi anh P đang nằm ngủ. Khoảng 5 phút sau thì anh P thức dậy thấy B đang hút thuốc nên đuổi B đi chỗ khác. B đi đến nhà vệ sinh khoa Sản gần đó và lấy điện thoại Iphone 6S vừa lấy trộm của anh P bỏ vào trong thùng rác để trước nhà vệ sinh cất giấu và tiếp tục đứng hút thuốc thì có 02 anh Đinh Khương D và Đặng Quang L (là bảo vệ bệnh viện) đến mời B về phòng bảo vệ. Anh P kiểm tra lại tài sản phát hiện bị mất trộm điện thoại di động Iphone 6S và số tiền 3.000.000 đồng nên báo cho anh D và anh L biết. Sau đó, anh D và anh L đưa B về phòng bảo vệ bệnh viện, rồi giao B cùng tang vật cho Công an phường 7, quận Bình Thạnh xử lý. Công an phường 7, quận Bình Thạnh lập hồ sơ chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thạnh xử lý theo thẩm quyền.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Quang B thừa nhận có lấy điện thoại di động Iphone 6S của anh P nhưng không thừa nhận lấy trộm 3.000.000 đồng.
Tại bản kết luận định giá số 474 ngày 09/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Bình Thạnh kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S – 16GB màu xám có giá trị 2.100.000 đồng.
Vật chứng gồm:
- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S, số Imei: 3557690707322, có sim thuê bao số 0879531404 là điện thoại của anh Lương Đức P. Công an phường 7 đã trả lại điện thoại trên cho anh P.
- Trách nhiệm dân sự: anh Lương Đức P đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu về dân sự.
Tại Cáo trạng số 51/CTr-VKSBTh ngày 03 tháng 02 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh đã truy tố bị cáo Nguyễn Quang B về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh thực hành quyền công tố trình bày quan điểm của Viện kiểm sát đối với vụ án, sau khi phân tích tính chất hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị mức án đối với bị cáo từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù, các vật chứng đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Quang B thừa nhận hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cho bị cáo được hưởng mức án khoan hồng.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, lời khai của người bị hại và nhân chứng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Bình Thạnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng theo quy định của pháp luật.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:
[2.1] Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh đã nêu. Hội đồng xét xử nhận thấy, lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt bị can để tạm giam, lời khai của người làm chứng và bị hại, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận định giá cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ, cho thấy: vào khoảng 02 giờ 45 phút ngày 01/11/2020, tại hành lang khoa chống độc, Bệnh viện nhân dân Gia Định, lợi dụng lúc anh Lương Đức P sơ hở, Nguyễn Quang B đã lén lút trộm cắp 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S của anh P, trị giá là 2.100.000 đồng. Hành vi nêu trên của bị cáo đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[2.2] Bị cáo Nguyễn Quang B là người trưởng thành, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức rõ việc trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật, nhưng muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo đã lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Đây là lỗi cố ý của bị cáo. Hành vi của bị cáo Nguyễn Quang B đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Hội đồng xét xử xét thấy tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó Hội đồng xét xử quyết định áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Bị cáo có một tiền án chưa được xóa án tích nay lại phạm tội do cố ý là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[4] Đối với số tiền 3.000.000 đồng bị hại Lương Đức P khai nhận do B lấy trộm, B không thừa nhận, Cơ quan điều tra không chứng minh được bị cáo lấy trộm nên không có căn cứ xử lý là đúng quy định pháp luật.
[5] Về trách nhiệm dân sự và vật chứng:
Về trách nhiệm dân sự: bị hại Lương Đức P đã nhận lại tài sản bị mất trộm và không có yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về vật chứng: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S đã trả lại cho bị hại nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1/ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang B 02 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/12/2020.
2/ Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 50/2021/HSST
Số hiệu: | 50/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về