Bản án về tội trộm cắp tài sản số 49/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BĐ, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 49/2023/HS-ST NGÀY 31/07/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện BĐ, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 46/2023/HSST ngày 14 tháng 7 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2023/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 7 năm 2023. đối với bị cáo:

Họ và tên: Võ Anh H, sinh năm 1995 tại Bình Phước; Nơi cư trú: Thôn BT, xã ĐK, huyện BGM, tỉnh Bình Phước; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc; Kinh; Giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 5/12; con ông Võ Thành S và bà Lê Thị Kim Đ; Bị cáo có vợ tên Sầm Thị H, sinh năm 2000 và 02 người con, lớn sinh năm 2019, nhỏ sinh năm 2022; Tiền án: Không; tiền sự: Ngày 08/6/2021 bị UBND tỉnh Bình Phước xử phạt 80.000.000 đồng về hành vi sản xuất, buôn bán hàng cấm tại Quyết định xử phạt hành chính số 1505/QĐ- XPVPHC; Nhân thân: Ngày 05/4/2018 bị TAND huyện Bù Gia Mập xử phạt 18 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản” (đã xóa án tích); Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/3/2023 và chuyển sang tạm giam cho đến nay - Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Ông Phạm Văn Đ, sinh năm 1985 – Có mặt  Địa chỉ: Ấp TT, thị trấn TB, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước

Những người làm chứng:

+ Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1993 – Vắng mặt Địa chỉ: Thôn BT, xã PM, huyện BGM, tỉnh Bình Phước

+ Bà Sầm Thị H, sinh năm 2000 – Có mặt Địa chỉ: Thôn BT, xã ĐK, huyện BGM, tỉnh Bình Phước

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 29/3/2023, Võ Anh H đi đến nhà Đinh Quốc T thuộc thôn 3, xã Thiện Hưng, huyện BĐ để chơi. Tại đây, H gặp đối tượng tên Nguyễn Văn P cũng đến nhà Tuấn chơi, P rủ H đi tìm tài sản để trộm bán lấy tiền tiêu xài, H đồng ý. Đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 30/3/2023, P điều khiển xe mô tô hiệu Sirius, màu đỏ đen, biển số 61C-X chở H đi trên đường ĐT759 hướng từ TT.Thanh Bình qua xã Đakia tìm tài sản để trộm, H mang theo 01 kéo cắt sắt màu xám bạc, kích thước dài 60 cm, P mang theo 01 kìm cắt màu xám bạc, có kí hiệu: Hondar và 01 “đoản” phá khóa xe. Khi đi đến nhà ông Phạm Văn Đ thuộc ấp TT, thị trấn TT, huyện BĐ thấy cổng nhà mở nên P điều khiển xe mô tô chở H vào trong sân nhà, đưa cho H 01 kìm cắt màu xám bạc rồi điều khiển xe ra ngoài đường làm nhiệm vụ cảnh giới. H xuống xe, cầm kìm cắt đi đến cắt khóa cửa nhà ông Đ rồi mang kìm ra đưa cho P. Lúc này, P đưa cho H 01 “đoản” phá ổ khóa xe. H đi vào trong nhà phát hiện có 01 xe mô tô hiệu Yamaha, loại Sirius, màu đỏ đen bạc, biển số: 93P1-X; 01 xe đạp điện, hiệu Osakar, màu đỏ đen. H sử dụng “đoản” phá khóa xe mô tô biển số: 93P1-X nhưng không được nên dắt xe ra ngoài để P phá khóa. Khi P phá được khóa xe, H nổ máy xe điều khiển đi vào trong nhà ông Đ, chất xe đạp điện hiệu OSAKAR lên yên xe mô tô biển số: 93P1- X rồi điều khiển xe mô tô ra ngoài đường giao cho P điều khiển đi cất giấu. H điều khiển xe mô tô hiệu Sirius của P tiếp tục quay vào nhà ông Đ lấy 01 máy hàn điện JASIC 200A, màu vàng cam để lên gác baga xe mô tô rồi điều khiển xe ra khỏi nhà. Khi H ra đến cổng nhà thì ông Đ về đến phát hiện, truy hô cùng người dân giữ H lại, trình báo Cơ quan Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và tạm giữ toàn bộ vật chứng.

Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, đối tượng tên P gọi thoại qua ứng dụng Mesenger chỉ vị trí cất giấu xe mô tô Sirius và xe đạp điện cho bà Sầm Thị H là vợ của Võ Anh H. Sau đó, bà H đã đến lấy xe giao nộp cho Cơ quan Công an.

- Tại Bản kết luận định giá tài sản số 199/2023/KL-HĐĐGTS, ngày 04/4/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện BĐ xác định giá trị tài sản gồm: 01 xe mô tô hiệu Yamaha, loại Sirius màu đỏ đen bạc, biển số: 93P1-X; 01 xe đạp điện hiệu Osakar, màu đỏ đen; 01 máy hàn điện JASIC 200A, màu vàng cam, tại thời điểm ngày 30/3/2023 có tổng giá trị là 21.082.000 đồng.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện BĐ giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như trong nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Võ Anh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”, căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 18-24 tháng tù.

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của Kiểm sát viên và xin được hưởng mức án nhẹ nhất.

- Bị hại không có yêu cầu gì trong vụ án và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện BĐ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện BĐ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Vì muốn có tiền tiêu xài, khoảng 00 giờ 30 phút ngày 30/3/2023, bị cáo Võ Anh H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của ông Phạm Văn Đ 01 xe mô tô hiệu Yamaha, loại Sirius màu đỏ đen bạc, biển số: 93P1-X; 01 xe đạp điện hiệu Osakar, màu đỏ đen; 01 máy hàn điện JASIC 200A, màu vàng cam có tổng giá trị là 21.082.000 đồng. Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Do đó Cáo trạng số 47/CTr-VKS ngày 14 tháng 7 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện BĐ và bản luận tội của Kiểm sát viên truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đã từng bị xét xử về hành vi trộm cắp tài sản nên nhận thức rõ hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Xét tính chất, mức độ, H quả hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, tương ứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản bị chiếm đoạt đã thu hồi trả cho bị hại, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo đang nuôi con nhỏ.

Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự được áp dụng đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Những người tham gia tố tụng không có yêu cầu gì nên không đặt ra xem xét

[7] Về vật chứng:

+ Đối với 01 xe mô tô hiệu Yamaha, loại Sirius màu đỏ đen, biển số: 61C1- X là phương tiện sử dụng để phạm tội, quá trình điều tra xác định xe do bà Lê Thị Ngọc đứng tên chủ sở hữu. Bà Ngọc kinh doanh xe gắn máy và đã bán xe cho người khác. Bị cáo khai xe là của P, ngày 30/3/2023, P sử dụng xe để chở bị cáo đi trộm cắp, đến nay chưa làm việc được với P nên CQCSĐT tiếp tục tạm giữ xe, khi có căn cứ sẽ xử lý sau là có cơ sở.

+ Đối với 01 xe mô tô hiệu Yamaha, loại Sirius màu đỏ đen bạc, biển số: 93P1-X; 01 xe đạp điện hiệu Osakar, màu đỏ đen; 01 máy hàn điện JASIC 200A, màu vàng cam, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của ông Phạm Văn Đ, ngày 08/4/2023 CQCSĐT đã quyết định xử lý vật chứng bằng cách trả lại cho anh Đ là có cơ sở.

+ Đối với 01 kéo cắt sắt màu xám bạc, kích thước dài 60 cm, có kí hiệu: No.042003024; 01 kìm cắt màu xám bạc, có kí hiệu: HONDAR; 01 mũ bảo hiểm màu trắng; 01 áo mưa màu xanh lá cây; 01 áo thun ngắn tay màu đen; 01 quần thun màu đen; 02 áo khoác màu đen. Quá trình điều tra xác định là tài sản của bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Những vấn đề khác Đối với đối tượng Nguyễn Văn P: bị cáo khai P là người cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, tuy nhiên đến nay Cơ quan CSĐT chưa làm việc được với P nên tách ra điều tra, xác minh làm rõ xử lý sau.

Xét bị cáo có nhân thân xấu, ý thức pháp luật kém, đề nghị của Kiểm sát viên về hình phạt là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Tuyên bố bị cáo Võ Anh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự Xử phạt bị cáo Võ Anh H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam (ngày 30/3/2023).

[2]. Vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Tịch thu tiêu hủy 01 kéo cắt sắt màu xám bạc, kích thước dài 60 cm, có kí hiệu: No.042003024; 01 kìm cắt màu xám bạc, có kí hiệu: HONDAR; 01 mũ bảo hiểm màu trắng; 01 áo mưa màu xanh lá cây; 01 áo thun ngắn tay màu đen; 01 quần thun màu đen; 02 áo khoác màu đen.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/7/2023 giữa Công an huyện BĐ và Chi cục THADS huyện BĐ)

[3]. Án phí: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. [4]. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

53
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 49/2023/HS-ST

Số hiệu:49/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đốp - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về