Bản án về tội trộm cắp tài sản số 49/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG

BẢN ÁN 49/2023/HS-ST NGÀY 29/08/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 8 năm 2023, Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự theo hình thức trực tuyến tại 02 điểm cầu: Điểm cầu Trung tâm tại Phòng xét xử Hình sự - Hội trường tầng 3, trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang. Điểm cầu thành phần tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Giang, đối với vụ án hình sự thụ lý số 50/2023/TLST-HS ngày 26 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:

Hoàng Quốc B, Sinh ngày 16 tháng 02 năm 1999, tại huyện Q, tỉnh Hà Giang; Nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: Thôn L, xã T, huyện Q, tỉnh Hà Giang; căn cước công dân số 00209900xxxx do Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội cấp ngày 28/6/2022; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn T và bà Hoàng Thị D; vợ, con: Chưa có; tiền sự, nhân thân: không; tiền án: Ngày 02/3/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, theo Bản án số 04/2020/HS-ST, đến ngày 04/06/2022 chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 17/06/2023, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Giang. Có mặt

- Bị hại: Ông Lý Chiềm T, sinh năm 1980; nơi cư trú: Thôn T, thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

- Người làm chứng:

+ Ông Lý Văn L, sinh năm 1982. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

 + Ông Phàn Văn T, sinh năm 1999. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 30/01/2023, Hoàng Quốc B, sinh năm 1999, trú tại thôn L, xã T, huyện Q, tỉnh Hà Giang một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Dream, màu trắng - nâu (không gắn BKS) đi từ nhà tại xã T theo đường quốc lộ 279 hướng Q - B. Khi đến tổ 13, thị trấn V, huyện B, B vào cây xăng C mua 20.000 đồng (hai mươi nghìn đồng) tiền xăng, rồi điều khiển xe mô tô đi theo đường Quốc lộ 279 từ B đi huyện Q. Trên đường đi, đến khoảng 15 giờ cùng ngày, B nảy sinh ý định trộm cắp tài sản nên rẽ vào đường đi thôn T, thị trấn V, huyện B đến khu người dân tộc Dao xem nhà nào sơ hở, không có người ở nhà thì vào trộm tài sản. Khi Hoàng Quốc B đi đến nhà Lý Chiềm T, sinh năm 1980, trú tại thôn T, thị trấn V, huyện B, B dừng xe phía ngoài gần đường quan sát thấy không có ai ở nhà, B nhìn thấy trên chuồng gà có một con gà mái đang ấp trứng, B vào dùng hai tay bắt con gà cho vào bao tải dứa màu trắng lấy tại cạnh chuồng gà, sau đó B mang bao tải dứa đựng con gà đặt lên giá để hàng phía trước rồi điều khiển xe mô tô ra đường Quốc lộ 279 (hướng Q đi B) mục đích đem gà đi tiêu thụ để lấy tiền tiêu xài cá nhân. Trên đường đi đến khu vực nhà nghỉ H thuộc thôn T, thị trấn V, huyện B, B bị một số người dân truy đuổi bắt giữ cùng tang vật và báo Công an thị trấn V, huyện B đến giải quyết theo quy định. Sau khi tiếp nhận thông tin, Công an thị trấn V tiến hành xác minh sơ bộ ban đầu xác định, ngày 02/03/2020, B đã bị Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang tuyên phạt 03 năm 06 tháng tù giam về tội “Cướp giật tài sản” mới chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/06/2022 và chưa được xóa án tích. Xác định hành vi của Hoàng Quốc B đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản, Công an thị trấn V đã hoàn thiện hồ sơ và chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B giải quyết theo thẩm quyền. Tại Cơ quan điều tra, Hoàng Quốc B đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản tại gia đình anh Lý Chiềm T vào ngày 30/01/2023.

Căn cứ vào các tài liệu thu thập được, ngày 03/02/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã yêu cầu định giá tài sản số 03, yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bắc Quang tiến hành định giá đối với 01 con gà mái loại gà ta lông màu trắng, có trọng lượng 1,81kg (một phẩy tám mươi mốt kilogam). Tại kết luận định giá tài sản số: 02/KL-HĐĐGTS ngày 07/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bắc Quang kết luận: 01 con gà mái loại gà ta lông màu trắng có trọng lượng 1,81kilogam, tại thời điểm định giá tháng 02/2023, có giá trị 230.000 đồng (hai trăm ba mươi nghìn đồng).

Với chứng cứ và hành vi trên, tại Cáo trạng số 54/CT-VKSBQ ngày 26/7/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang đã truy tố Hoàng Quốc B về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, tại phiên toà đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Hoàng Quốc B về tội “Trộm cắp tài sản”.

Về Điều luật áp dụng và hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; đoạn 1 điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Quốc B từ 09 tháng đến 01 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 17/06/2023. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, Về trách nhiệm dân sự: Giai đoạn điều tra bị hại đã nhận lại được tài sản, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường, nên đề nghị không xem xét.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

+ Đề nghị xử tịch thu và tiêu hủy vật chứng không có giá trị và không sử dụng được là 01(một) bao tải dứa màu trắng có kích thước dài 60cm; rộng 38cm bên ngoài bao tải dứa có in chữ “SONG GIANH GA-50”

+ Đề nghị tuyên trả lại cho bị hại Lý Chiềm T 01 (một) con gà mái ta màu trắng, có trọng lượng 1,81kg.

+ Đề nghị giao lại cho Cơ quan điều tra Công an huyện B điều tra làm rõ nguồn gốc 01(một) xe mô tô nhãn hiệu Dream II, số loại TALENT,số máy VTTJL1P50FMGX003562, số khung: RRKDCG0TT5XP05178, xe không có gương chiếu hậu hai bên, xe không gắn biển kiểm soát, xe cũ đã qua sử dụng, xe có nhiều vết trầy xước và han gỉ, không kiểm tra phần máy bên trong; ngoài ra khi điều khiển xe mô tô trên, B không có giấy phép lái xe theo quy định. Căn cứ vào các hành vi của B nêu trên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, chuyển các tài liệu liên quan cho Công an huyện B để xử lý theo quy định.

- Về án phí: Đề nghị buộc bị cáo Hoàng Quốc B phải chịu án phí theo quy định.

Phần tranh tụng tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với điều luật áp dụng, tội danh và mức hình phạt mà Kiểm sát viên đã đề nghị trong bản luận tội.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đề nghị hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức hình phạt thấp nhất để bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm trở thành người công dân có ích cho xã hội và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra huyện Bắc Quang, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; tại phiên toà Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, vắng mặt bị hại và những người làm chứng, xét thấy họ đã có lời khai đầy đủ, rõ ràng trong hồ sơ và đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Trên cơ sở ý kiến của Kiểm sát viên và xét thấy họ đã có đơn xin xét xử vắng mặt, sự vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 292, 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai và bản tự khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, các vật chứng đã thu giữ và phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng; các biên bản làm việc, biên bản xác minh; biên bản cân tịnh tài sản; biên bản xác định hiện trường; sơ đồ hiện trường và bản ảnh hiện trường; bản ảnh vật chứng; biên bản họp định giá tài sản và kết luận định giá tài sản số 20/KL-HĐĐGTS ngày 07/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bắc Quang cùng tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định: Khoảng 15 giờ, ngày 30/01/2023, lợi dụng gia đình ông Lý Chiềm T đi vắng, không có ai ở nhà, Hoàng Quốc B đã lén lút thực hiện hành vi trộm tài sản là 01 con gà mái loại gà ta lông màu trắng có trọng lượng 1,81 kilogam, đã định giá là 230.000 đồng (hai trăm ba mươi nghìn đồng). Do tại thời điểm thực hiện hành vi trộm cắp tài sản bị cáo Hoàng Quốc B đã bị kết án về tội “Cướp giật tài sản” quy định tại Điều 171 của Bộ luật Hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, nên Hoàng Quốc B phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang đã truy tố.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, có hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác là khách thể được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ. Đồng thời còn làm mất trật tự trị an tại địa phương, gây lo lắng cho quần chúng nhân dân trong việc quản lý tài sản. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vì lười lao động, bị cáo đã lợi dụng chủ sở hữu vắng nhà, lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là 01 con gà có trị giá là 230.000 đồng. Do khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản bị cáo B đã bị kết án về tội “Cướp giật tài sản” quy định tại Điều 171 của Bộ luật Hình sự, bị cáo không biết ăn năn, hối cải lấy đó làm bài học, tu dưỡng bản thân mà lại tiếp tục vi phạm, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo nói riêng và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của người phạm tội thấy rằng: Trong vụ án này bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo lao động tự do không có thu nhập ổn định, do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

[7] Ngoài hành vi trộm cắp tài sản, bị cáo Hoàng Quốc B còn có hành vi điều khiển xe mô tô tham gia giao thông không gắn biển số, không có giấy đăng ký xe theo quy định đã vi phạm Điều 17 của Nghị định 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ. Xét thấy Hoàng Quốc B đã vi phạm hành chính về các hành vi nêu trên, nhưng cơ quan Công an huyện B chưa xử lý hành vi vi phạm hành chính đối với Hoàng Văn B là thiếu sót. Đề nghị cơ quan Công an huyện B xử lý hành vi vi phạm hành chính đối với Hoàng Quốc B theo đúng quy định của pháp luật.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Giai đoạn điều tra bị hại đã nhận lại được tài sản, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về xử lý vật chứng: Đối với vật chứng đã thu giữ trong vụ án là 01 con gà mái loại gà ta lông màu trắng có trọng lượng 1,81kilogam, thuộc quyền sở hữu hợp pháp của gia đình bị hại Lý Chiềm T, quá trình điều tra Cơ quan Công an huyện B đã tạm giao cho gia đình bị hại. Giai đoạn điều tra cũng như trong đơn xin xét xử vắng mặt gia đình bị hại xác nhận đã nhận lại được tài sản bị mất trộm, nên không có yêu cầu nào khác, do đó Hội đồng xét xử không xem xét. Đối với số vật chứng thu giữ còn lại, trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và quá trình thẩm vấn tranh tụng tại phiên tòa. Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, xử lý như sau: Đối với vật chứng là 01(một) bao tải dứa màu trắng có kích thước dài 60cm; rộng 38cm bên ngoài bao tải dứa có in chữ “SONG GIANH GA-50” là vật chứng bị cáo đã sử dụng vào việc phạm tội, không có giá trị và không sử dụng được cần tuyên tịch thu, tiêu hủy.

[10] Đối với vật chứng là 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Dream II, số loại TALENT, số máy VTTJL1P50FMGX003562, số khung RRKDCG0TT5XP 05178, xe không có gương chiếu hậu hai bên, xe không gắn biển kiểm soát, xe cũ đã qua sử dụng, do cơ quan Công an thu giữ trong quá trình điều tra vụ án, quá trình thẩm vấn tranh tụng tại phiên tòa bị cáo B khai mua của người đàn ông không rõ tên tuổi với giá 3.000.000 đ, nhưng bị cáo không có giấy tờ hay tài liệu nào chứng minh nguồn gốc chiếc xe mô tô thuộc quyền sở hữu của bị cáo. Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ và trên cơ sở xác minh, tra cứu dữ liệu đăng ký xe mô tô có nhãn hiệu Dream II nêu trên của Công an huyện B xác định không có trên hệ thống đăng ký tỉnh Hà Giang. Hội đồng xét xử thấy rằng đây là vật chứng bị cáo sử dụng làm phương tiện đi lại không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng việc bị cáo sử dụng xe mô tô tham gia giao thông không gắn biển số, không có giấy đăng ký xe theo quy định đã vi phạm Điều 17 của Nghị định 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt. Do cơ quan Công an huyện B chưa xử phạt vi phạm hành chính về hành vi nêu trên đối với Hoàng Quốc B, nên cần giao lại vật chứng là chiếc xe mô tô nhãn hiệu Dream II, số loại TALENT, số máy VTTJL1P50FMGX003562, số khung RRKDCG0TT5XP 05178 cho cơ quan Công an huyện B để xử lý theo quy định.

[11] Từ những phân tích nêu trên, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về giải quyết vụ án, đề nghị về tội danh, đề nghị áp dụng điều luật và mức hình phạt đối với bị cáo và đề nghị xử lý vật chứng là hoàn toàn có cơ sở và đúng quy định của pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[12] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 50; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, khoản 2 Điều 136, các Điều 331, 333, 336, 337 của Bộ luật tố Tụng hình sự; Điều 3, Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Tuyên bố bị cáo Hoàng Quốc B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Hoàng Quốc B 09 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam (ngày 17/06/2023).

3. Về xử lý vật chứng:

- Xử tịch thu và tiêu hủy 01(một) bao tải dứa màu trắng có kích thước dài 60cm; rộng 38cm bên ngoài bao tải dứa có in chữ “SONG GIANH GA-50” - Giao lại cho Cơ quan điều tra Công an huyện B quản lý và xử lý theo thẩm quyền: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Dream II, số loại TALENT,số máy VTTJL1P50FMGX003562, số khung: RRKDCG0TT5XP05178, xe không có gương chiếu hậu hai bên, xe không gắn biển kiểm soát, xe cũ đã qua sử dụng, xe có nhiều vết trầy xước và han gỉ, không kiểm tra phần máy bên trong.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Công an huyện B và Chi cục thi hành án dân sự huyện Bắc Quang ngày 31/7/2023).

4. Về án phí: Bị cáo Hoàng Quốc B phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân dự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên toà, có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được bản án sao hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 49/2023/HS-ST

Số hiệu:49/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Quang - Hà Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về