Bản án về tội trộm cắp tài sản số 48/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 48/2023/HS-ST NGÀY 29/08/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, TP.Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai, vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 49/2023/TLST- HS ngày 27 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2023/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Tùng H (tên khác là V), sinh ngày 24/6/2001 tại Cà Mau.

Nơi cư trú: Số 23 đường H 2, Tổ 25, phường H, quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng. Nghề nghiệp: Không Trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam;

Cha: Không rõ; mẹ: Nguyễn Thị Ánh T(SN: 1978; còn sống). Bị cáo là con duy nhất trong gia đình.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Quyết định số 46 ngày 19/9/2017 của TAND quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa Nguyễn Tùng H vào Trường giáo dưỡng 12 tháng.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 01/4/2023 - Có mặt tại phiên tòa

* Người bị hại:

1/ Chị Phan Thị H1, sinh năm: 1984 (vắng mặt) Địa chỉ: 142 đường N, phường H, quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng.

2/ Anh Đỗ Xuân Q, sinh năm: 1987. (vắng mặt) Địa chỉ: K172/H55/7/5 đường T, phường H, quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng.

3/ Ông Nguyễn Văn X, sinh năm: 1968 (vắng mặt) Địa chỉ: 119 đường X, phường K, quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng

4/ Chị Phan Thị Anh Đ1, sinh năm: 1984 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 4, phường H, quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng

5/Anh Nguyễn Phước T1, sinh năm: 1988 (vắng mặt) Địa chỉ: 41 đường P 7, phường H, quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng

 6/Anh Nguyễn Tiến Đ2, sinh năm: 1985 (vắng mặt) Địa chỉ: 310 đường X, phường K, quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng

7/Anh Mai Văn T2, sinh năm: 1973(vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 4, phường H, quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng

8/ Chị Lê Thị Kiều D, sinh năm: 1991(vắng mặt) Địa chỉ: 138 đường L, phường H, quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng

9/ Ông Nguyễn Vũ Th,sinh năm: 1966(vắng mặt) Địa chỉ: 226 đường N, phường K, quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng

10/Anh Hồ Ngọc Th1, sinh năm: 2001(vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 44, phường T, quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Chị Ngô Thị Ánh Ch, sinh năm: 1978(vắng mặt) Địa chỉ: 55A đường M, phường M, quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng.

2/ Anh Phan Tiến S, sinh năm: 1985(vắng mặt) Địa chỉ: K594/ 18 đường T, phường X, quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng

3/ Anh Trần Đình H, sinh năm: 1973(vắng mặt) Địa chỉ: K235/ 10 đường T, phường H, quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng

4/ Chị Võ Thị Ng, sinh năm: 1981(vắng mặt) Địa chỉ: 12 H 9, phường H, quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng.

5/ Chị Nguyễn Thị Băng S1, sinh năm: 1977(có mặt)

6/ Anh Nguyễn Hải Tr, sinh năm: 1982(có mặt) Cùng địa chỉ: 23 H 2, phường H, quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng

7/ Huỳnh Thị Phương L, sinh năm: 1969( xin vắng mặt) Địa chỉ: 263 đường T, tổ 17, phường H, quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có nghề nghiệp và để có tiền tiêu xài, Nguyễn Tùng H điều khiển xe mô tô đi đến các quán nhậu trên địa bàn thành phố Đà Nẵng rồi lợi dụng ban đêm trong lúc các quán đã đóng cửa và không có người trông coi, H lén lút đột nhập vào trộm cắp tài sản là thùng bia lon nhãn hiệu các loại mang ra xe, chở đến các tiệm tạp hóa để tiêu thụ. Với phương thức, thủ đoạn như trên, trong khoảng thời gian từ ngày 15/01/2023 đến ngày 18/02/2023, H đã thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, cụ thể:

- Vụ thứ nhất: Khoảng 02 giờ 10 phút ngày 15/01/2023, H điều khiển xe mô tô BKS: 43G1-xxxxx hiệu Honda Wave RSX Fi, màu đỏ đen đi đến quán Dê Quay H, số 142 đường N, phường H, quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng, lén lút đột nhập vào quán trộm cắp 07 thùng bia lon hiệu Tiger Crystal, 03 thùng bia lon hiệu Tiger, 02 thùng bia lon hiệu Huda, 05 thùng bia lon hiệu Larue Smooth, với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 5.856.000 đồng của chị Phan Thị H1 (SN: 1984; là chủ quán) và tẩu thoát. Sau đó, H mang số bia này đến bán tại tiệm tạp hóa (không xác định rõ địa chỉ cụ thể) được 3.900.000 đồng.

- Vụ thứ hai: Khoảng 01 giờ vào giữa tháng 01 năm 2023, H điều khiển xe mô tô BKS: 43G1-xxxxx đi đến quán Nam Trân tại khu vực giao nhau đường Nam Trân và Bàu Năng 11, phường H, quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng, lén lút đột nhập vào quán trộm cắp 05 thùng bia lon hiệu Larue, 04 thùng bia lon hiệu Tiger, 03 thùng bia lon hiệu Heineken, với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 4.083.000 đồng của anh Đỗ Xuân Q (SN: 1987; là chủ quán) và tẩu thoát. Sau đó, H mang số bia này đến bán tại tiệm tạp hóa (không xác định rõ địa chỉ cụ thể) được 2.900.000 đồng.

- Vụ thứ ba: Lúc 01 giờ 15 phút ngày 19/01/2023, H điều khiển xe mô tô BKS: 43T1-xxxx hiệu Honda Lead, màu đỏ đi đến quán Hạnh, số 119 đường X, phường K, quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng, lén lút đột nhập vào quán trộm cắp 05 thùng bia lon hiệu Larue Smooth, 03 thùng bia lon hiệu Huda, với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 2.241.000 đồng của anh Nguyễn Văn X (SN: 1968; là chủ quán) và tẩu thoát. Sau đó, H mang số bia này đến bán tại tiệm tạp hóa (không xác định rõ địa chỉ cụ thể) được 1.850.000 đồng.

- Vụ thứ tư: Khoảng 01 giờ ngày 08/02/2023, H điều khiển xe mô tô BKS:

43T1-xxxx đi đến quán bê thui Anh Đào, số 18 đường T, phường H, quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng, lén lút đột nhập vào quán trộm cắp 10 thùng bia lon hiệu Larue Smooth, với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 2.850.000 đồng của chị Phan Thị Anh Đ1 (SN: 1984; là chủ quán) và tẩu thoát. Sau đó, H mang số bia này đến tiệm tạp hóa Loan, số 263 đường T, phường H, quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng bán cho bà Huỳnh Thị Phương L (SN: 1969) được 2.000.000 đồng.

- Vụ thứ năm: Khoảng 00 giờ 20 phút ngày 10/02/2023, H điều khiển xe mô tô BKS: 43T1-xxxx đi đến quán nhậu A, số 89 đường N, phường H, quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng, lén lút đột nhập vào quán trộm cắp 10 thùng bia lon hiệu Tiger Crystal, 03 thùng bia lon hiệu Heineken Silver, 05 thùng bia lon hiệu Larue, 02 thùng bia lon hiệu Huda, với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 7.026.000 đồng của anh Nguyễn Phước T1 (SN: 1988; là chủ quán) và tẩu thoát. Sau đó, H mang số bia này đến bán cho bà Huỳnh Thị Phương L được 4.300.000 đồng.

- Vụ thứ sáu: Khoảng 01 giờ vào giữa tháng 02 năm 2023, H điều khiển xe mô tô BKS: 43T1-xxxx đi đến quán T, số 310 đường X, phường K, quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng, lén lút đột nhập vào quán trộm cắp 06 thùng bia lon hiệu Larue Smooth, 03 thùng bia lon hiệu Huda, với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 2.526.000 đồng của anh Nguyễn Tiến Đ2 (SN: 1985; là chủ quán) và tẩu thoát. Sau đó, H mang số bia này đến bán cho bà Huỳnh Thị Phương L được 1.800.000 đồng.

- Vụ thứ bảy: Khoảng 02 giờ ngày 18/02/2023, H tiếp tục điều khiển xe mô tô BKS: 43T1-xxxx, lén lút đột nhập vào quán T, số 310 đường X, phường K, quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng trộm cắp 04 thùng bia lon hiệu Larue Smooth, 02 thùng bia lon Tiger Crystal, 01 thùng bia lon hiệu Tiger, 02 thùng bia lon Heineken Silver, với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 3.212.000 đồng của anh Nguyễn Tiến Đ2. Sau đó, H mang số bia này đến bán cho bà Huỳnh Thị Phương L nhưng lúc này bà L bắt đầu nghi ngờ đây là tài sản bất hợp pháp nên từ chối mua và đóng cửa tiệm. H để lại số bia trộm được tại phía trước tiệm tạp hóa, dự định quay lại năn nỉ bà L tiêu thụ giúp thì sáng cùng ngày bà L trình báo và giao nộp số bia trên cho cơ quan công an.

Ngoài ra, H còn 04 lần thực hiện các vụ trộm cắp tài sản khác, cụ thể:

- Lần 01: Khoảng 01 giờ vào cuối tháng 12 năm 2022, H điều khiển xe mô tô BKS: 43G1-xxxxx đi đến quán Toàn Nga, số 27 đường N, phường H, quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng, lén lút đột nhập vào quán trộm cắp 02 thùng bia lon hiệu Larue Smooth, 01 thùng bia lon hiệu Larue, 02 thùng bia lon hiệu Huda, với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 1.368.000 đồng của anh Mai Văn T (SN: 1973; là chủ quán) và tẩu thoát. Sau đó, H mang số bia này bán tại tiệm tạp hóa (không xác định rõ địa chỉ cụ thể) được 1.000.000 đồng.

- Lần 02: Lúc 00 giờ 05 phút ngày 31/01/2023, H điều khiển xe mô tô BKS:

43T1-xxxx đi đến quán T, số 138 đường L, phường H, quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng, lén lút đột nhập vào quán trộm cắp 01 thùng bia lon hiệu Strongbow, 01 thùng bia lon hiệu Tiger Crystal, 01 thùng bia lon hiệu Tiger, 01 thùng bia lon hiệu Heineken, với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 1.662.000 đồng của chị Lê Thị Kiều D (SN: 1991; là chủ quán) và tẩu thoát. Sau đó, H mang số bia này đến bán cho bà Huỳnh Thị Phương L được 1.000.000 đồng.

- Lần 03: Khoảng 02 giờ 30 phút vào đầu tháng 02 năm 2023, H điều khiển xe mô tô BKS: 43T1-xxxx đi đến quán D, số 226 đường N, phường K, quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng, lén lút đột nhập vào quán trộm cắp 02 thùng bia lon hiệu Larue, 02 thùng bia lon hiệu Larue Smooth, 02 thùng bia lon hiệu Huda, 01 thùng bia lon hiệu Tiger, với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 1.996.000 đồng của anh Nguyễn Vũ Th (SN: 1966; là chủ quán). Sau đó, H mang số bia này ra xe định tẩu thoát thì bị anh Th phát hiện, đuổi theo đạp vào xe làm đổ 06 thùng bia đang để trên bục để chân người lái rơi xuống đất, H liền dựng xe lên điều khiển tẩu thoát, còn lại 01 thùng bia lon hiệu Larue Smooth để trong cốp xe sau đó H đem ra uống hết cùng bạn.

- Lần 04: Lúc 03 giờ 10 phút ngày 11/02/2023, H điều khiển xe mô tô BKS:

43T1-xxxx đi đến quán Phước Râu, số 1347 đường N, phường T, quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng, lén lút đột nhập vào quán trộm cắp 02 thùng bia lon hiệu Huda, 02 thùng bia lon hiệu Larue Smooth, 01 thùng bia lon hiệu Tiger Crystal với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 1.509.000 đồng của anh Hồ Ngọc Th1 (SN: 2001; là chủ quán) và tẩu thoát. Sau đó, H mang số bia này bán cho bà Huỳnh Thị Phương L được 1.050.000 đồng.

Theo Kết luận định giá số 13/KL-HĐĐGTS ngày 03/3/2023 và Kết luận định giá số 45/KL-HĐĐGTS ngày 08/6/2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự của UBND quận Cẩm Lệ, xác định giá trị tài sản bị cáo H đã chiếm đoạt của các bị hại tổng cộng số tiền là 34.329.000 đồng.

Toàn bộ số tiền có được từ việc bán tài sản sau mỗi vụ trộm cắp, H tiêu xài cá nhân hết. (BL: 30-57; 58-69; 70-138; 139-158; 159-185; 196-216) * Vật chứng và tài sản thu giữ: (BL: 186-195) - 01 xe mô tô BKS: 43T1-xxxx hiệu Honda Lead, màu đỏ đen.

- 05 thùng bia lon hiệu Larue, 22 thùng bia lon hiệu Larue Smooth, 07 thùng bia lon hiệu Huda, 02 thùng bia lon hiệu Tiger, 14 thùng bia lon hiệu Tiger Crystal, 06 thùng bia lon hiệu Heineken Silver, 01 thùng bia lon hiệu Strongbow.

- 01 VCD ghi dữ liệu camera an ninh.

Với nội dung trên tại bản Cáo trạng số 52/CT-VKSCL ngày 26/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Nguyễn Tùng H về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm đã truy tố như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tùng H phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

Đề nghị HĐXX bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự và áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “người phạm tội tự nguyện khắc phục hậu quả”; “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi”; gia đình bị cáo có công với Cách Mạng và bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt theo quy định tại điểm b, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo Nguyễn Tùng H.

Áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 173; điểm b,s khoản 1 Điều 51 và Khoản 2 Điều 51, Điểm g Khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tùng H mức án từ 02 năm đến 03 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự:

- Đối với 05 thùng bia lon hiệu Larue, 22 thùng bia lon hiệu Larue Smooth, 07 thùng bia lon hiệu Huda, 02 thùng bia lon hiệu Tiger, 14 thùng bia lon hiệu Tiger Crystal, 06 thùng bia lon hiệu Heineken Silver, 01 thùng bia lon hiệu Strongbow là tài sản của các bị hại gồm chị Lê Thị Kiều D, chị Phan Thị Anh Đ1, anh Nguyễn Phước T1, anh Hồ Ngọc Th1 và anh Nguyễn Tiến Đ2 nên Cơ quan CSĐT Công an quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng trả lại cho chủ sở hữu là có cơ sở. Các bị hại đã nhận lại tài sản và không có khiếu nại gì về phần dân sự nên không đề cập đến - Đối với bị hại Phan Thị H1 yêu cầu bồi thường số bia đã bị chiếm đoạt với số tiền 5.765.000 đồng; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho chị H1 và chị H1 đã nhận tiền, không yêu cầu gì thêm về dân sự nên không đề cập đến.

- Đối với thiệt hại của anh Đỗ Xuân Q số tiền 4.083.000 đồng; ông Nguyễn Văn X số tiền là 2.241.000 đồng; anh Mai Văn T số tiền là 1.368.000 đồng; ông Nguyễn Vũ Th số tiền là 1.996.000 đồng; những người này không yêu cầu bị cáo H phải bồi thường nên không đề cập đến.

- Đối với số tiền bà Huỳnh Thị Phương L đã trả tiền mua bia cho bị cáo H, bà L không yêu cầu bị cáo H phải trả lại nên không đề cập đến.

Về vật chứng:

- Đối với 05 thùng bia lon hiệu Larue, 22 thùng bia lon hiệu Larue Smooth, 07 thùng bia lon hiệu Huda, 02 thùng bia lon hiệu Tiger, 14 thùng bia lon hiệu Tiger Crystal, 06 thùng bia lon hiệu Heineken Silver, 01 thùng bia lon hiệu Strongbow là tài sản của các bị hại gồm chị Lê Thị Kiều D, chị Phan Thị Anh Đ1, anh Nguyễn Phước T, anh Hồ Ngọc Th1 và anh Nguyễn Tiến Đ2 nên Cơ quan CSĐT Công an quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng trả lại cho chủ sở hữu là có cơ sở.

- Đối với xe mô tô BKS: 43T1-xxxx hiệu Honda Lead, màu đỏ đen và xe mô tô BKS: 43G1-xxxxx hiệu Honda Wave RSX Fi, màu đỏ đen giấy tờ xe đứng tên chị Ngô Thị Ánh Ch qua xác minh đây là tài sản của anh Nguyễn Hải Tr và chị Nguyễn Thị Băng S (là cậu và dì ruột ở chung nhà với H), bị cáo H tự ý lấy đi làm phương tiện trộm cắp tài sản anh Tr và chị S không biết nên Cơ quan điều tra trả lại cho anh Tr, chị S là có cơ sở.

- Đối với 01 VCD ghi dữ liệu camera an ninh là tài liệu, chứng cứ tiếp tục lưu theo hồ sơ vụ án là phù hợp.

Về trách nhiệm của những người có liên quan:

- Đối với bà Huỳnh Thị Phương L là người có hành vi mua bia do H trộm cắp mà có mang đến bán. Tuy nhiên, do H nói dối bà L là bia của nhà H tích trữ bán dịp Tết còn dư nhiều, gần hết hạn nên bán để thu hồi vốn, do đó bà L không biết đây là tài sản do H phạm tội mà có. Vì vậy, Cơ quan điều tra không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bà L là phù hợp.

- Đối với xe mô tô BKS: 43T1-xxxx hiệu Honda Lead, màu đỏ đen và xe mô tô BKS: 43G1-xxxxx hiệu Honda Wave RSX Fi, màu đỏ đen qua xác minh đây là tài sản của anh Nguyễn Hải Tr và chị Nguyễn Thị Băng S (là cậu và dì ruột ở chung nhà với H), bị cáo H tự ý lấy đi làm phương tiện trộm cắp tài sản anh Tr và chị S không biết nên Cơ quan điều tra không xử lý là có cơ sở.

Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Những người tham gia phiên tòa không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Tại phiên tòa những người bị hại là chị Phan Thị H1; anh Đỗ Xuân Q; ông Nguyễn Văn X; chị Phan Thị Anh Đ1, anh Nguyễn Phước T, anh Nguyễn Tiến Đ2, anh Mai Văn T, chị Lê Thị Kiều D, ông Nguyễn Vũ Th, anh Hồ Ngọc Th2; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Ngô Thị Ánh Ch, anh Phan Tiến S, anh Trần Đình H,chị Võ Thị Ng, bà Huỳnh Thị Phương L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng bà L có đơn xin xét xử vắng mặt; những người còn lại đều vắng mặt không có lý do. Trong hồ sơ vụ án đã có lời khai của những người này. Do đó, sự vắng mặt của những người bị hại, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan nêu trên không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án.

[1.2] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo; người bị hại; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung:

[2.1] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Tùng H khai nhận hành vi phạm tội, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định:

[2.1.1] Do không có nghề nghiệp và để có tiền tiêu xài, trong khoảng thời gian từ cuối tháng 12/2022 đến ngày 18/02/2023, trên địa bàn quận Cẩm Lệ, quận Thanh Khê và quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, bị cáo Nguyễn Tùng H đã nhiều lần có hành vi lén lút đột nhập vào các quán nhậu để chiếm đoạt tài sản là thùng bia lon các loại của người khác với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 34.329.000 đồng.

[2.1.2] Hành vi trên của bị cáo Nguyễn Tùng H đã phạm vào tội “ Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự như Cáo trạng số 52/CT-VKSCL ngày 26/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng đã truy tố là có căn cứ đúng pháp luật.

[2.2] Xét tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Tùng H thì thấy:

Bị cáo là người tuổi đời còn trẻ, lẽ ra bị cáo phải lo lao động, tu dưỡng, rèn luyện bản thân để trở thành công dân có ích cho xã hội, nhưng bị cáo lười lao động, coi thường pháp luật, chỉ muốn có tiền nhanh chóng để thỏa mãn mục đích cá nhân bằng đồng tiền lao động của người khác, bị cáo Nguyễn Tùng H đã lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của người bị hại nên bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Tùng H đã xâm hại quyền sở hữu của người khác về tài sản được pháp luật bảo vệ, bị cáo thực hiện việc trộm cắp tài sản của nhiều bị hại là chị Phan Thị H1; anh Đỗ Xuân Q; ông Nguyễn Văn X; chị Phan Thị Anh Đ1, anh Nguyễn Phước T, anh Nguyễn Tiến Đ2, anh Mai Văn T , chị Lê Thị Kiều D, ông Nguyễn Vũ Th, anh Hồ Ngọc Th1 với giá trị tài sản chiếm đoạt tổng cộng là 34.329.000 đồng; bị cáo H không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định; bị cáo thực hiện hành vi phạm tội chiếm đoạt tài sản của người khác để chi tiêu cho cuộc sống nên thuộc trường hợp có tính chất chuyên nghiệp là tình tiết định khung được quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Do tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo H là nguy hiểm cho xã hội, không những gây thiệt hại về tài sản cho người bị hại mà còn làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an ninh ở địa phương. Do đó, Hội đồng xét xử cần xử phạt bị cáo nghiêm minh, xử cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời răn đe các đối tượng khác có hành vi tương tự.

[2.3] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ của bị cáo:

Bị cáo Nguyễn Tùng H có nhân thân xấu: Đã từng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính Đưa vào Trường giáo dưỡng 12 tháng theo Quyết định số 46 ngày 19/9/2017 của TAND quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng; bị cáo H “phạm tội 02 lần trở lên” thuộc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo Nguyễn Tùng H đã thành khẩn khai báo,ăn năn hối cải; “người phạm tội tự nguyện khắc phục hậu quả”; gia đình bị cáo có công với cách mạng và người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt nghĩ nên áp dụng Điểm b, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo H một phần hình phạt khi lượng hình.

[2.4] Xét về trách nhiệm dân sự:

- Đối với 05 thùng bia lon hiệu Larue, 22 thùng bia lon hiệu Larue Smooth, 07 thùng bia lon hiệu Huda, 02 thùng bia lon hiệu Tiger, 14 thùng bia lon hiệu Tiger Crystal, 06 thùng bia lon hiệu Heineken Silver, 01 thùng bia lon hiệu Strongbow là tài sản của các bị hại gồm chị Lê Thị Kiều D, chị Phan Thị Anh Đ1, anh Nguyễn Phước T, anh Hồ Ngọc Th1 và anh Nguyễn Tiến Đ2 nên Cơ quan CSĐT Công an quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng trả lại cho chủ sở hữu gồm: chị D, chị Đ1, anh T, anh Th1 và anh Đ2 là có cơ sở. Các bị hại đã nhận lại tài sản và không có khiếu nại gì nên HĐXX không đề cập đến.

- Đối với bị hại chị Phan Thị H1 yêu cầu bồi thường số bia đã bị H chiếm đoạt với số tiền 5.765.000 đồng; bị cáo H đã tác động gia đình bồi thường cho chị H và chị H đã nhận tiền, chị H không yêu cầu gì thêm về dân sự nên HĐXX không đề cập đến.

- Đối với thiệt hại của anh Đỗ Xuân Q số tiền 4.083.000 đồng; ông Nguyễn Văn X số tiền là 2.241.000 đồng; anh Mai Văn T số tiền là 1.368.000 đồng; ông Nguyễn Vũ Th số tiền là 1.996.000 đồng. Những người này không yêu cầu bị cáo H phải bồi thường nên HĐXX không đề cập đến.

- Đối với số tiền bà Huỳnh Thị Phương L đã trả tiền mua bia cho bị cáo H, bà L không yêu cầu bị cáo H phải trả lại cho bà L nên không HĐXX đề cập đến.

[2.5] Xét về vật chứng:

- Đối với 05 thùng bia lon hiệu Larue, 22 thùng bia lon hiệu Larue Smooth, 07 thùng bia lon hiệu Huda, 02 thùng bia lon hiệu Tiger, 14 thùng bia lon hiệu Tiger Crystal, 06 thùng bia lon hiệu Heineken Silver, 01 thùng bia lon hiệu Strongbow là tài sản của các bị hại gồm chị Lê Thị Kiều D, chị Phan Thị Anh Đ1, anh Nguyễn Phước T, anh Hồ Ngọc Th và anh Nguyễn Tiến Đ2 nên Cơ quan CSĐT Công an quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng trả lại cho chủ sở hữu là có cơ sở.

- Đối với xe mô tô BKS: 43G1-xxxxx hiệu Honda Wave RSX Fi, màu đỏ đen qua xác minh giấy tờ xe đứng tên chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị Băng S; đối với xe mô tô BKS: 43T1-xxxx hiệu Honda Lead, màu đỏ đen qua xác minh giấy tờ xe đứng tên chị Ngô Thị Ánh Ch; chị Ch đã bán lại cho anh Phan Tiến S; anh S bán lại xe cho anh Trần Đình H; anh H bán xe qua cho chị Võ Thị Ng và qua xác minh chị Ng đã bán lại xe BKS: 43T1-xxxx cho anh Nguyễn Hải Tr. Như vậy, cả 02 xe BKS: 43G1-xxx và BKS: 43T1-xxxx là tài sản thuộc sở hữu của chị Nguyễn Thị Băng S và anh Nguyễn Hải Tr (là cậu và dì ruột ở chung nhà với H), bị cáo H tự ý lấy xe đi làm phương tiện trộm cắp tài sản anh Tr và chị S không biết nên Cơ quan điều tra trả lại cho anh Tr, chị S là có cơ sở.

- Đối với 01 VCD ghi dữ liệu camera an ninh là tài liệu, chứng cứ tiếp tục lưu theo hồ sơ vụ án là phù hợp.

[2.6] Về trách nhiệm của những người có liên quan:

- Đối với bà Huỳnh Thị Phương L là người có hành vi mua bia do H trộm cắp mà có mang đến bán. Tuy nhiên, do H nói dối bà L là bia của nhà H tích trữ bán dịp Tết còn dư nhiều, gần hết hạn nên bán để thu hồi vốn, do đó bà L không biết đây là tài sản do H phạm tội mà có. Vì vậy, Cơ quan điều tra không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bà L là phù hợp.

- Đối với xe mô tô BKS: 43T1-xxxx hiệu Honda Lead, màu đỏ đen và xe mô tô BKS: 43G1-xxxxx hiệu Honda Wave RSX Fi, màu đỏ đen là tài sản qua xác minh đây là tài sản của anh Nguyễn Hải Tr và chị Nguyễn Thị Băng S (là cậu và dì ruột ở chung nhà với H), bị cáo H tự ý lấy xe đi làm phương tiện thực hiện việc trộm cắp tài sản, anh Tr và chị S không biết nên Cơ quan điều tra không xử lý anh Tr chị S là có cơ sở.

[2.7] Hội đồng xét xử xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ tại phiên tòa về căn cứ các điều luật áp dụng cũng như đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo là có cơ sở nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi lượng hình.

đồng.

[2.8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Tùng H phải chịu 200.000 Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Điều 173; Điểm b,s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51; Điểm g Khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tùng H phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tùng H 02 (hai ) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt, ngày 01/4/2023.

Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự

-Tiếp tục lưu theo hồ sơ vụ án đối với 01 đĩa VCD ghi dữ liệu camera an ninh là tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án.

Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Tùng H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo Nguyễn Tùng H; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị Băng S, anh Nguyễn Hải Tr có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 29/8/2023.

Riêng những người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 48/2023/HS-ST

Số hiệu:48/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cẩm Lệ - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về