TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI LỘC - TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 47/2023/HS-ST NGÀY 21/06/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 21 tháng 6 năm 2023 tại Hội trường trụ sở Ủy ban nhân dân xã Nghi Công Bắc,Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc mở phiên tòa lưu động công khai để xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số 37/2023/HS-ST ngày 01 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2023/QĐXXST-HS ngày 08/6/2023 đối với bị cáo:
Nguyễn Anh N; Giới tính: nam; Tên gọi khác: không; Sinh ngày 29 tháng 7 năm 1983 tại huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Nơi ĐKHKTT: xóm V , xã Đ, huyện Y, tỉnh Nghệ An. Nghề nghiệp: Lao động tự do; TĐVH: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Con ông Nguyễn Văn N (đã chết) và bà Nguyễn Thị L. Bị cáo có vợ là Phan Thị M và có 02 con; Tiền sự: không; Tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2005/HSST ngày 19/7/2005 của Tòa án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An xử phạt 24 tháng tù, về tội: "Trộm cắp tài sản". Chấp hành xong án phạt tù ngày 28/12/2006. Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2007/HSST ngày 28/5/2007 của Tòa án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An xử phạt 12 tháng tù, về tội: "Trộm cắp tài sản". Nguyễn Anh N kháng cáo, tại Bản án hình sự phúc thẩm số 116/2007/HSPT ngày 19/9/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xử phạt 06 tháng tù, về tội: "Trộm cắp tài sản". Chấp hành xong án phạt tù ngày 18/8/2008. Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2012/HSST ngày 17/01/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 14 năm tù, về tội: "Trộm cắp tài sản" (Phạm tội thuộc tình tiết định khung hình phạt "Tái phạm nguy hiểm"). Chấp hành xong án phạt tù ngày 04/7/2021.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/3/2023 đến nay tại nhà tạm giữ Công an huyện Nghi Lộc thuộc Công an tỉnh Nghệ An. Có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại:
Chị Đặng Thị N, sinh năm 1988 Địa chỉ: xóm Y, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 02 giờ ngày 23/3/2023, sau khi xuống xe ô tô khách tại khu vực đường Quốc lộ 1A, đoạn tránh thành phố Vinh thuộc địa phận xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc thì Nguyễn Anh N gọi điện thoại nhờ Trần Khắc T (sinh năm 1990, trú tại xóm Đ, xã Đ, huyện Y) đến đón. Một lúc sau T đến đón N rồi cả hai đi ăn đêm tại khu vực thị trấn Q, huyện N. Quá trình ăn uống thì N nói với T: "Em có cái xe nào cho anh mượn cái xe anh đi", T trả lời: "Em không có xe, xe em còn đi mượn" thì N nói: "Rứa em chở anh đi vòng vòng anh kiếm cái xe để anh còn về nhà" (ý nói nhờ T chở N đi tìm trộm cắp xe mô tô), T đồng ý. Sau đó, T điều khiển xe mô tô (không rõ biển kiểm soát) chở N đến khu vực xã N, huyện Ng để trộm cắp tài sản. Khi đi ngang qua nhà anh Phan Hữu Th (sinh năm 1990) ở xóm L xã N, huyện N thì N phát hiện trong sân nhà anh T có để 03 chiếc xe mô tô nên N nói với : "Dừng lại, anh có xe đây rồi, em đi đi" (ý nói N đã tìm thấy xe để trộm cắp). T đồng ý rồi điều khiển xe rời đi, còn N đẩy cửa cổng nhà anh T đi vào bên trong sân rồi dắt trộm chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius màu sơn đỏ đen, biển kiểm soát 37B1-851.xx của chị Đặng Thị N gửi tại nhà anh T trước đó. Khi N đang dắt chiếc xe trên ra khỏi sân nhà anh T thì bị anh T phát hiện hô hoán; N bỏ xe chạy ra ngoài thì bị Công an xã Ng, huyện N bắt quả tang, thu giữ vật chứng gồm 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius màu sơn đỏ đen, biển kiểm soát 37B1-851.xx; 01 thanh kim loại hình chữ L và 01 thanh kim loại được đập dẹt một đầu (là công cụ, phương tiện N mang theo để thực hiện hành vi phạm tội). Sau đó, vụ việc được chuyển giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nghi Lộc để điều tra theo thẩm quyền Tại bản Kết luận định giá tài sản số 08/KL.ĐG ngày 25/3/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự UBND huyện Nghi Lộc kết luận: "Trị giá tài sản của 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ đen, biển kiểm soát 37B1- 851.xx tại thời điểm mất trộm ngày 23/3/2023 có trị giá là 10.400.000 đồng".
Chiếc xe đã được thu hồi, trả lại cho chị Đặng Thị N ; Chị Đặng Thị N không có yêu cầu gì về mặt dân sự.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện Kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng truy tố; Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 173 quy định về hình phạt cho tội danh "Trộm cắp tài sản"; tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 đề nghị xử phạt Nguyễn Anh Ngọc Từ 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm tù; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ và tạm giam. Tịch thu tiêu hủy vật chứng thu được trong vụ án là công cụ phạm tội.
Bị cáo nói lời sau cùng, xin Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
{1} Về hành vi tố tụng của cơ quan điều tra công an huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An và Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự. Việc xác minh, thu thập vật chứng đúng trình tự, khách quan; Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, khẳng định các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng pháp luật.
{2} Về cấu thành tội phạm: Tại phiên tòa hôm nay, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người tham gia tố tụng trong hồ sơ; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ cũng như nội dung của bản Cáo trạng và trong quá trình tranh tụng: Khoảng 03 giờ 00 phút ngày 23/3/2023, lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu, Nguyễn Anh N đã đột nhập vào sân nhà anh Phan Hữu Th ở xóm L, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An, đang thực hiện hành vi trộm cắp 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, màu sơn đỏ đen, biển kiểm soát 37B1-851.xx trị giá 14.400.000 đồng của chị Đặng Thị N (gửi tại nhà anh T ) thì bị bắt quả tang, thu giữ các vật chứng như đã nêu trên;
Viện Kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo theo Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng với quy định của pháp luật.
{3} Xét tính chất vụ án, nhân thân, tình tiết định khung hình phạt, tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phạm tội của bị cáo:
Đây là vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng, bị cáo đã ba lần bị xét xử về tội trộm cắp chưa được xóa án tích. Mục đích phạm tội xuất phát từ nhu cầu tiêu xài cho cá nhân. Hành vi kể trên là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ; Việc điều tra, truy tố và xét xử nhanh chóng vụ án là một việc làm kịp thời của các cơ quan tiến hành tố tụng. Đó không chỉ là bài học cho bị cáo mà còn là tiếng chuông cảnh tỉnh cho những thanh thiếu niên không lo lao động làm ăn mà chỉ muốn chơi bời hưởng thụ bất chính.
{3.1} Về định khung hình phạt: bị cáo có hành vi trộm cắp tài sản trị giá 10.400.000 đồng nhưng là tái phạm nguy hiểm nên bị xét xử theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng quy định.
{3.2}Về tình tiết tăng nặng: không.
{3.3} Về tình tiết giảm nhẹ:
Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; tỏ ra ăn năn hối cải và nhận thức được sai phạm. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tài sản được thu giữ và trả lại ngay cho người bị hại nên hậu quả thiệt hại chưa xảy ra.
{4} Về hình phạt chính; hình phạt bổ sung:
Dựa vào các nhận định trên, cần áp dụng quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015; các tình tiết tăng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xem xét khi lượng hình và lên cho bị cáo mức án như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.
Do bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.
{5} Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã được nhận lại tài sản ngay, không gây ra thiệt hại gì và không có yêu cầu gì nên không xét.
Đối với người thanh niên tên T, do hiện tại đã bỏ trốn khỏi địa phương nên cơ quan điều tra tách ra giải quyết bằng một vụ án khác là đúng quy định.
Bị cáo phải chịu án phí; người tham gia tố tụng có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
{1} Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Anh N phạm tội "Trộm cắp tài sản".
{2} Áp dụng: điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015;
{3} Xử phạt: Nguyễn Anh N 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/3/2023.
{4} Về các nội dung khác:
- Về vật chứng: tịch thu tiêu hủy 01 vam phá khóa là bằng thanh sắt uốn hình chữ L, và 01 thanh kim loại một đầu đạp dẹt có tại kho tang vật Chi cục Thi hành án Hình sự huyện Nghi Lộc theo biên bản giao nhận ngày13/6/2023.
- Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về Lệ phí, án phí Tòa án buộc Nguyễn Anh N phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.
{5} Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết công khai bản án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 47/2023/HS-ST
Số hiệu: | 47/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nghi Lộc - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/06/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về