TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH - TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 47/2022/HS-ST NGÀY 28/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 28 tháng 04 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành - tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 38/2022/TLST-HS ngày 01 tháng 04 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2022/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 04 năm 2022 đối với các bị cáo:
1. Trần Đình N, sinh ngày 10/01/1992 tại xóm Xuân Sơn, xã Diễn Đoài, huyện Diễn C, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: xóm Xuân Sơn, xã Diễn Đoài, huyện Diễn C, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Nhật Đại và bà Nguyễn Thị Lan; vợ, con: chưa có; tiền án: ngày 24/6/2020 bị TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 316/2020/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/12/2020; tiền sự: không; nhân thân: ngày 04/3/2014 bị TAND huyện Diễn C, tỉnh Nghệ An xử phạt 06 tháng tù về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tại bản án số 18/2014/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 19/5/2014; tạm giữ, tạm giam: từ ngày 20/12/2021 đến nay. Bị cáo có mặt.
2. Nguyễn Phi C, sinh ngày 20/12/1997 tại xóm Xuân Đường, xã Diễn Đoài, huyện Diễn C, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: xóm Xuân Đường, xã Diễn Đoài, huyện Diễn C, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hóa: 9/12 ; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Phi Lòn và bà Trần Thị Ngọ; vợ, con: chưa có; tiền án: không; tiền sự: không; tạm giữ ,tạm giam từ ngày 20/12/2021 đến nay. Bị cáo có mặt.
3. Nguyễn Phi L, sinh ngày 27/7/1995 tại xóm Xuân Đường, xã Diễn Đoài , huyện Diễn C, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: xóm Xuân Đường, xã Diễn Đoài, huyện Diễn C, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch :Việt Nam ; con ông: Nguyễn Phi Lam ( đã chết) và bà Nguyễn Thị Lam; có vợ Nguyễn Thị Thanh và 01 con; tiền án: không; tiền sự: không; tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/12/2021 đến nay. Bị cáo có mặt.
4. Hồ Bá B, sinh ngày 29/11/1989 tại xã Quỳnh L, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: xóm 1, xã Quỳnh L, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: sửa chữa xe máy; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch:Việt Nam; con ông: Hồ Bá Kiền ( đã chết) và bà Trần Thị Đường; có vợ Trần Thị Loan và 04 con; tiền án: không; tiền sự: không; tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/12/2021 cho đến ngày 29/12/2021 thì bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt.
Người bị hại:
1. Anh Vi Trung K – sinh năm 1992 (vắng mặt) Địa chỉ: Bản Thanh Phong 2, xã Mường N, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An
2. Chị Tô Thị N– sinh năm 1985 (vắng mặt) Địa chỉ: xóm Nghĩa Th, thị xã Thái Hòa, tỉnh Nghệ An
3. Anh Trần Văn T – sinh năm 1998 (có mặt) Địa chỉ: xóm Cửa T, xã Tiến Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Nguyễn Đình K – sinh năm 1996 (vắng mặt) Địa chỉ: xóm 2, xã Diễn Tr, huyện Diễn C, tỉnh Nghệ An
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trong thời gian từ ngày 13/12/2021 đến ngày 19/12/2021, Trần Đình N cùng với Nguyễn Phi C, Nguyễn Phi L đã nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản; Hồ Bá B đã thực hiện 01 lần tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn huyện Yên Thành, thành phố Vinh, thị xã Thái Hòa, cụ thể như sau:
- Lần thứ nhất: Khoảng 12 giờ 00 phút, ngày 12/12/2021, Trần Đình N điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe Sirius, màu đỏ đen không gắn biển kiểm soát của Ngọc chở Nguyễn Phi C đi từ nhà Ngọc đến phòng trọ của Nguyễn Phi L tại dãy nhà số 04 ngõ 02 đường Hoàng Phan Thái, xã Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An chơi. Tại đây Ngọc và Cường quan sát thấy có 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe Sirius, màu đỏ đen, BKS 37F1- 027.75 của anh Vi Trung Kiên, sinh năm 1992, trú tại bản Thanh Phong 2, xã Mường N, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An đang dựng trước cửa phòng trọ của anh Kiên (cách phòng trọ của Lợi khoảng 05 phòng) thì Ngọc nói với Cường “tối lấy xe này đi” (nghĩa là Ngọc rủ Cường trộm cắp chiếc xe mô tô này) thì Cường đồng ý. Một lúc sau, Nguyễn Phi L về phòng trọ mở của phòng trọ cho Cường và Ngọc vào nghỉ ngơi. Đến khoảng 01 giờ 00 phút ngày 13/12/2021, Ngọc nói với Lợi “ngoài ni có cái xe, ra ta lấy rồi về đi” (tức là Ngọc rủ Lợi trộm cắp chiếc xe mô tô của anh Kiên) thì Lợi nói “bay lấy đi rồi ta về” (tức Lợi đồng ý trộm cắp chiếc xe mô tô của anh Kiên). Sau đó, Ngọc lấy từ phòng trọ của Lợi 01 chiếc kéo màu đỏ rồi đến vị trí để chiếc xe mô tô của anh Kiên dùng kéo cắt dây điện trong ổ khóa của xe. Lúc này, Cường đang đứng cảnh giới. Sau khi phá khóa xe xong, Ngọc nói với Lợi “xong rồi, ta về thôi” (tức là Ngọc và Cường đã phá khóa xong chiếc xe mô tô của anh Kiên và rủ Lợi đi về nhà bán chiếc xe mô tô này). Sau đó, Ngọc điều khiển xe mô tô vừa trộm được đi về nhà còn Lợi điều khiển xe mô tô chở Cường về. Khi đi đến khu vực huyện Nghi Lộc, cả ba dừng xe rồi tháo biển số xe của anh Kiên và ném biển số bên đường (cả 03 đối tượng không nhớ rõ vị trí ném biển số xe). Tháo biển số xe xong, Ngọc điều khiển xe mô tô của Ngọc chở Cường ngồi phía sau còn Lợi điều khiển xe mô tô trộm cắp được của anh Kiên đi tìm nơi tiêu thụ. Đến khoảng 09 giờ 00 phút ngày 13/12/2021, Lợi gọi điện cho anh Nguyễn Đình Khánh, sinh năm 1992, trú xóm 2, xã Diễn Tr, huyện Diễn C, tỉnh Nghệ An nói “em đang cần tiền, muốn bán chiếc xe máy” thì anh Khánh nói “đưa đến đây anh xem”. Ngọc, Lợi, Cường đem chiếc xe mô tô trộm cắp được của anh Kiên đến cửa hàng của Khánh tại xóm 1, xã Diễn Tr, huyện Diễn C, tỉnh Nghệ An. Lợi trực tiếp vào trao đổi mua bán xe với Khánh còn Ngọc, Cường đứng ngoài. Khi gặp Khánh, Lợi nói “em có con xe đây, anh mua được mấy?”, Khánh nói “xe mô đây, có giấy tờ gì không?”, Lợi trả lời “xe nhà em, có giấy tờ mà mua lâu rồi nên để em tìm lại giấy tờ, khi mô tìm được giấy tờ thì em mang lên cho” thì Khánh đồng ý mua xe. Cả hai thống nhất giá cả chiếc xe là 2.500.000 đồng. Bán được xe, Lợi cầm tiền chia cho Ngọc, Cường mỗi người 800.000 đồng, còn 100.000 đồng mua xăng. Số tiền bán xe có được các đối tượng đã tiêu xài cá nhân hết.
Tại Bản kết luận định giá số 41 ngày 24/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND huyện Yên Thành kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe Sirius, màu đỏ đen, BKS 37F1-027.75, xe đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 13/12/2021 có giá trị 10.500.000 (muời triệu năm trăm nghìn) đồng.
- Lần thứ hai: Vào khoảng 08 giờ 00 phút ngày 14/12/2021, Trần Đình N điều khiển xe mô tô của Ngọc đến nhà của Nguyễn Phi L rủ Lợi đi đến thị xã Thái Hòa, tỉnh Nghệ An để chơi thì Lợi đồng ý. Khi cả hai đi đến khu vực ngã tư xóm Đông Hồng, xã Đông Hiếu, thị xã Thái Hòa, tỉnh Nghệ An thì phát hiện 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Vision, màu xanh BKS 37H1-509.18 của chị Tô Thị Nguyệt, sinh năm 1985, trú tại xóm 1, xã Nghĩa Th, thị xã Thái Hòa, tỉnh Nghệ An đang dựng trong sân quán cà phê của chị Đinh Thị Thùy Linh, sinh năm 1996, trú tại xóm Đông Hồng, xã Đông Hiếu, thị xã Thái Hòa, tỉnh Nghệ An không có ai trông coi thì cả hai nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe này. Lúc này, Lợi đứng ngoài cảnh giới còn Ngọc đi đến vị trí dựng chiếc xe mô tô nói trên thấy chìa khóa đang cắm ở ổ khóa nên Ngọc dắt chiếc xe ra đường rồi khởi động chiếc xe và cùng Lợi đi theo Quốc lộ 48 hướng về huyện Diễn C. Trên đường về, Lợi dừng xe và dùng cờ lê (đã đem theo trước đó) tháo biển kiểm soát xe mô tô vừa trộm cắp được lắp vào chiếc xe mô tô của Ngọc rồi cả hai đi đến khu vực xã Diễn Tr, huyện Diễn C. Trên đường đi, Lợi gọi điện cho Nguyễn Phi C nói “dừ tau đang cần tiền muốn bán xe, mi biết ở mô mua xe không” thì Cường nói “chờ tí để tau hỏi cho”. Cường gọi điện cho Hồ Bá B nói “dượng có ở ốt không để cháu lên” thì Bình hỏi “lên làm chi đó”, Cường nói “lên để bán xe” thì Bình nói “lên đi”. Sau đó, Cường dẫn Lợi và Ngọc đến quán sửa chữa xe máy Thanh Bình của Hồ Bá B, tại xóm 6, xã Quỳnh Mỹ, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An để bán xe. Khi đến nơi, Cường và Ngọc đứng ngoài còn Lợi vào bán xe. Gặp Lợi, Bình hỏi “bán xe à?” thì Lợi trả lời “dạ”. Lúc này, do thấy xe không có biển kiểm soát nên Bình hỏi Lợi “biển số xe mô, giấy tờ xe mô” thì Lợi nói “không có anh à”, Bình nói “hay là xe nhảy” (tức là xe trộm cắp mà có) thì Lợi trả lời “xe nhảy anh à” (tức là xe Lợi trộm được). Sau đó, Lợi và Bình thống nhất giá cả mua bán xe là 3.400.000 đồng. Lợi cầm tiền và đưa xe cho Bình. Sau khi lấy tiền, Lợi chia cho Ngọc 1.700.000 đồng. Số tiền này Lợi, Ngọc đã tiêu xài cá nhân hết.
Tại Bản kết luận định giá số 41 ngày 24/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND huyện Yên Thành kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Vision, màu xanh BKS 37H1-609.18, xe đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 14/12/2021 có giá trị 18.000.000 (mười tám triệu) đồng) - Lần thứ 3: vào khoảng 12 giờ 00 phút ngày 19/12/2021, Trần Đình N điều khiển xe mô tô của Ngọc chở Nguyễn Phi C đi đến địa bàn xã Tiến Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An chơi. Khi đi dến khu vực xóm Cửa T, xã Tiến Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An thì cả hai phát hiện 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, BKS 37P1-341.00, loại xe Exciter, màu xanh bạc của anh Trần Văn Tần, sinh năm 1998, trú tại xóm Cửa T, xã Tiến Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An đang dựng trong sân quán bán sơn gạch của anh Trần Văn Tần không có người trông coi nên cả hai muốn trộm cắp chiếc xe này. Cả hai thống nhất, Cường làm nhiệm vụ cảnh giới còn Ngọc vào lấy trộm chiếc xe. Ngọc đi vào vị trí để chiếc xe mô tô nói trên thấy chìa khóa đang cắm ở ổ khóa xe, Ngọc dắt chiếc xe ra đường rồi khởi động xe và cùng Cường điều khiển xe mô tô trộm cắp được về địa bàn huyện Diễn C để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân nhưng các đối tượng chưa kịp bán xe thì bị quần chúng nhân dân phát hiện báo tin cho Công an huyện Diễn C, tỉnh Nghệ An nên Ngọc, Cường bỏ chạy, để lại chiếc xe mô tô đã trộm cắp được của anh Tần. Đến ngày 19/12/2021, các đối tượng Nguyễn Phi C, Trần Đình N, Nguyễn Phi L đến Công an huyện Diễn C xin đầu thú về hành vi phạm tội của mình. Sau đó Công an huyện Diễn C đã chuyển hồ sơ cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an .huyện Yên Thành xử lý theo quy định.
Tại Bản kết luận định giá số 41 ngày 24/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND huyện Yên Thành kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, BKS 37P1-341.00, loại xe Exciter, màu xanh bạc, tại thời điểm ngày 19/12/2021 có giá trị 28.000.000 (hai mươi tám triệu) đồng.
Ngày 20/12/2021, Hồ Bá B đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Thành đầu thú về hành vi phạm tội của mình.
Như vậy, trong thời gian từ ngày 13/12/2021 đến ngày 19/12/2021:
Trần Đình N đã 03 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản với tổng giá trị tài sản là 56.500.000 đồng; Nguyễn Phi L 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản cùng với Trần Đình N với tổng giá trị tài sản là 28.500.000 đồng; Nguyễn Phi C cùng với Trần Đình N 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản với giá trị tài sản 38.500.000 đồng; Hồ Bá B thực hiện 01 hành vi tiêu thụ tài sản do Trần Đình N và Nguyễn Phi L trộm cắp mà có với giá trị tài sản 18.000.000 đồng.
*Vật chứng:
01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe Sirius, màu đỏ đen mang BKS 37F1-027.75, xe đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Đình Khánh; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Vision, màu xanh không có biển kiểm soát thu giữ của Hồ Bá B, 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, BKS 37P1-341.00, loại xe Exciter, màu xanh bạc và 01 BKS 37H1-5609.18 thu giữ của Trần Đình N và Nguyễn Phi C; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe Sirius, màu đỏ đen, không có biển kiểm soát của Trần Đình N; 01 chiếc cờ lê bằng kim loại có chiều dài 15 cm thu giữ của Trần Đình N.
Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã trả lại 03 chiếc xe mô tô các đối tượng đã trộm cắp cho chủ sở hữu hợp pháp gồm anh Vi Trung Kiên, chị Tô Thị Nguyệt và anh Trần Văn Tần.
Đối với 01 chiếc cờ lê bằng kim loại màu bạc có chiều dài 15 cm hiện đang được bảo quản tại Kho vật chứng Công an huyện Yên Thành chờ xử lý theo quy định pháp luật.
Đối với: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe Sirius, màu đỏ đen, không có biển kiểm soát thu giữ của Trần Đình N, quá trình điều tra, xác minh hiện không xác định được ai là chủ sở hữu (do xe mô tô số khung, số máy đã bị thay đổi) nên cơ quan điều tra đang bảo quản tại Kho vật chứng Công an huyện để tiếp tục xác minh, làm rõ.
*Về Dân sự:
- Các bị hại anh Vi Trung Kiên, chị Tô Thị Nguyệt và anh Trần Văn Tần đã nhận lại tài sản bị mất và không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì thêm.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Đình Khánh không yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Tại bản cáo trạng số 46/CT-VKS-YT, ngày 30 tháng 03 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành đã truy tố: Trần Đình N về tội “ Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự; Nguyễn Phi C, Nguyễn Phi L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự; Hồ Bá B về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173; điểm g, h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 17, 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Trần Đình N từ 3 năm đến 3 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” .
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 17, 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Nguyễn Phi C từ 18 tháng đến 21 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” .
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 17, 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Nguyễn Phi L từ 15 tháng đến 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” .
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1, 2 Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Hồ Bá B từ 12 tháng đến 15 tháng tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng.
Hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với các bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại đã nhận lại tài sản bị mất và không yêu cầu bồi thường gì thêm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại.
Vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 01 (một) chiếc cờ lê bằng kim loại, màu bạc, dài 15cm.
Án Phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí và lệ phí tòa án. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định.
Anh Tần ( bị hại) xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Cường.
Các bị cáo không tranh luận gì về tội danh, mức hình phạt với kiểm sát viên.
Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử khoan hồng, cho các bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất để các bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm của mình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong thời gian từ ngày 13/12/2021 đến ngày 19/12/2021, Trần Đình N, Nguyễn Phi C, Nguyễn Phi L, Hồ Bá B đã thực hiện các hành vi trộm cắp, tiêu thụ tài sản như sau:
Ngày 12/12/2021, Trần Đình N, Nguyễn Phi C và Nguyễn Phi L trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe Sirius, màu đỏ đen, BKS 37F1- 027.75 của anh Vi Trung Kiên, giá trị 10.500.000 đồng. Sau đó Ngọc, Cường, Lợi bán xe cho anh Nguyễn Đình Khánh được 2.500.000 đồng, rồi chia nhau Ngọc 800.000 đồng, Cường 800.000 đồng, Lợi 800.000 đồng, còn 100.000 đồng dùng đổ xăng xe.
Ngày 14/12/2021, Trần Đình N và Nguyễn Phi L trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Vision, màu xanh BKS 37H1-509.18 của chị Tô Thị Nguyệt, giá trị 18.000.000 đồng. Sau đó Lợi bán xe cho anh Hồ Bá B được 3.400.000 đồng, rồi chia nhau Ngọc 1.700.000 đồng, Lợi 1.700.000 đồng. Hồ Bá B biết xe do Ngọc và Lợi trộm cắp mà có nhưng vẫn mua.
Ngày 19/12/2021, Trần Đình N và Nguyễn Phi C trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, BKS 37P1-341.00, loại xe Exciter, màu xanh bạc của anh Trần Văn Tần, giá trị 28.000.000 đồng.
[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, vật chứng thu giữ được, có đủ cơ sở xác định các bị cáo lén lút chiếm đoạt tài sản của các bị hại, không hứa hẹn trước mà tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có như sau: Ngọc thực hiện 3 hành vi chiếm đoạt tài sản tổng giá trị 56.500.000 đồng, Cường thực hiện 2 hành vi chiếm đoạt tài sản tổng giá trị 38.500.000 đồng, Lợi thực hiện 2 hành vi chiếm đoạt tài sản tổng giá trị 28.500.000 đồng. Bình không hứa hẹn trước mà tiêu thụ tài sản biết rõ là do Ngọc, Lợi phạm tội mà có, giá trị 18.000.000 đồng. Do đó Viện kiểm sát truy tố: Bị cáo Ngọc về tội “ Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự; bị cáo Cường, Lợi về tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự; bị cáo Bình về tội “ Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Các hành vi phạm tội của bị cáo Ngọc là nghiêm trọng, có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội; Các hành vi phạm tội của bị cáo Cường, Lợi là ít nghiêm trọng, có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn. Chỉ trong một thời gian ngắn các bị cáo đã nhiều lần chiếm đoạt tài sản của người khác trong đêm khuya thanh vắng, giữa ban ngày, bằng nhiều thủ đoạn khác nhau, làm mất an ninh trật tự trên địa bàn. Bị cáo Bình vì hám lợi nên đã thực hiện 01 hành vi tiêu thụ tài sản, tạo điều kiện tinh thần cho các bị cáo tiếp tục phạm tội, làm mất an ninh trật tự trên địa bàn. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm khắc đối với các bị cáo, tuy nhiên các bị cáo cùng thực hiện một tội phạm, đều là người thực hành, không có tổ chức nên đồng phạm giản đơn, cần phân hóa vai trò của các bị cáo khi xem xét mức hình phạt.
Bị cáo Ngọc, Cường, Lợi đều phạm tội nhiều lần; Bị cáo Ngọc tái phạm; bị cáo Bình phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Các bị cáo đều khai báo thành khẩn, ra đầu thú; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Cường.
Khi phạm tội bị cáo Ngọc là người khởi xướng, rủ rê lôi kéo, là trực tiếp thực hiện trộm cắp tài sản; bị cáo Cường, Lợi cảnh giới, bán tài sản; bị cáo Bình tiêu thụ tài sản độc lập.
Nên cần xử phạt hình phạt tù với mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội để có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Đối với bị cáo Bình có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có khả năng tự cải tạo, có nơi cư trú rõ ràng xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội nên cho bị cáo được hưởng án treo.
Hình phạt bổ sung: Các bị cáo Ngọc, Cường, Lợi không có tài sản, thu nhập thấp nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
Bị cáo Bình làm nghề sửa chữa xe máy có tài sản và thu nhập nên cần xử phạt bổ sung từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.
[4] Anh Nguyễn Đình Khánh mua 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại Sirius do Cường và Lợi bán và nhưng anh Khánh không biết xe mô tô do trộm cắp mà có nên không có cơ sở xử lý anh Khánh.
[5] Về Dân sự:
Bị hại anh Vi Trung Kiên, chị Tô Thị Nguyệt và anh Trần Văn Tần đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Anh Nguyễn Đình Khánh không yêu giải quyết số tiền thiệt hại do mua bán tài sản trộm cắp nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thực hiện đúng theo quy trình, thủ tục, thẩm quyền do Bộ luật tố tụng Hình quy định là hợp pháp.
[7] Vật chứng:
Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho các bị hại là có căn cứ, đúng pháp luật.
01 ( một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe Sirius, màu đỏ đen, không có biển kiểm soát, số khung, số máy đã thay đổi, chưa xác định được chủ sở hữu nên Cơ quan điều tra quản lý để tiếp tục xác minh, xử lý theo quy định của pháp luật là có căn cứ.
01 (một) chiếc cờ lê bằng kim loại, màu bạc, dài 15cm ( đã qua sử dụng) là công cụ phạm tội, không có giá trị và giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
[8] Án phí: Các bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173; điểm g, h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 17, 58 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt Trần Đình N 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” .
Thời hạn tù tính từ ngày 20/12/2021.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 17, 58 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt Nguyễn Phi C 19 (mười chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” .
Thời hạn tù tính từ ngày 20/12/2021.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 17, 58 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt Nguyễn Phi L 16 (mười sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” .
Thời hạn tù tính từ ngày 20/12/2021.
- Căn cứ vào khoản 1, khoản 5 Điều 323; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 3 Điều 65; khoản 2 Điều 35 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt Hồ Bá B 12 (mười hai) tháng tù về tội “ Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Phạt tiền 6.000.000,00 ( Sáu triệu) đồng sung quỹ Nhà Nước. Tiền phạt được nộp một lần khi án có hiệu lực.
Giao Hồ Bá B cho Ủy ban nhân dân xã Quỳnh L, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong trường hợp Hồ Bá B thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách Hồ Bá B cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc Hồ Bá B phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
- Vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 01 (một) chiếc cờ lê bằng kim loại, màu bạc, dài 15cm (Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Thành quản lý ngày 28/04/2022)
- Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Các bị cáo Trần Đình N, Nguyễn Phi C, Nguyễn Phi L, Hồ Bá B mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm .
- Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 47/2022/HS-ST
Số hiệu: | 47/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về