Bản án về tội trộm cắp tài sản số 46/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 46/2024/HS-ST NGÀY 26/03/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân quận C, thành phố Đ mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 11/2024/TLST-HS ngày 12 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2024/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:

Đặng Trần T; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 08/3/1981, tại: Đ; Giới tính: Nữ; Nơi ĐKTT và chỗ ở: đường V, phường Đ, quận K, thành phố Đ; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; con ông Đặng D (Sn: 1944) và bà Trần Thị H (Sn: 1949). Có 01 con sinh năm 2015.

Tiền án:

- Bản án hình sự sơ thẩm số 128/2019/HS-ST ngày 25/10/20 của TAND thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, xử phạt 15 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 BLHS 2015 (chưa xoá án tích).

Tiền sự: Không. Nhân thân:

- Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2012/HSST ngày 15/6/2012 của TAND quận C, thành phố Đ xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 BLHS 1999.

- Bản án hình sự sơ thẩm số 105/2012/HSST ngày 25/9/2012 của TAND quận C và Bản án hình sự phúc thẩm số 324/2012/HSPT ngày 17/12/2012 của TAND thành phố Đ xử phạt 24 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sin” theo điểm e khoản 2 Điều 139 BLHS 1999; tổng hợp với Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2012/HSST ngày 15/6/2012 của TAND quận C, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 30 tháng tù.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam từ ngày 22/9/2023, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

- Bà Bùi Thị Y, sinh năm 1987. (Vắng mặt) Địa chỉ: đường H, phường N, quận C, thành phố Đ.

- Bà Phạm Lý C, sinh năm 1983 (Có mặt) Địa chỉ: đường L, phường X, quận K, thành phố Đ.

Người làm chứng:

- Ông Hoàng Ngọc G, sinh năm 1992 (Vắng mặt) Địa chỉ: đường H, phường N, quận C, thành phố Đ.

- Ông Huỳnh Văn A, sinh năm 1968 (Có mặt) Địa chỉ: đường B, phường E, quận L, thành phố Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền tiêu xài cá nhân nên ngày 11/6/2023 và 19/7/2023, bị cáo Đặng Trần T đã 02 lần trộm cắp tài sản trên địa bàn các quận C và Cẩm Lệ, thành phố Đ, cụ thể:

Lần 1: Bị cáo T biết tại ki ốt bán trái cây tại số 04 đường Hồ Nguyên Trừng, phường Hoà Cường Nam, quận C, thành phố Đ do chị Bùi Thị Y làm chủ thường xuyên để túi xách đựng nhiều tiền trên quầy hàng nên nảy sinh ý định trộm cắp. Sáng ngày 11/6/2023, chị Y đưa 01 túi xách màu đen bên trong có 96.400.000 đồng và giấy tờ tuỳ thân cho anh Hoàng Ngọc G để giao tiền hàng, anh G nhận và để trên quầy trái cây. Khoảng 09h45' cùng ngày, bị cáo T điều khiển xe mô tô biển số 74K7 - xxxxx đến, giả vờ vào mua trái cây và lợi dụng lúc không ai để ý đã trộm cắp chiếc túi xách rồi nhanh chóng rời đi. Số tiền 96.400.000 đồng bị cáo đã tiêu xài cá nhân hết, chiếc túi xách và giấy tờ bị cáo mang về cất giấu tại phòng trọ tại số 37 Nguyễn Trác, phường Hoà Thuận Tây, quận C, thành phố Đ và đã giao nộp cho Cơ quan Công an.

Theo Kết luận định giá tài sản số 128A ngày 09/12/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, UBND quận C, kết luận: 01 túi xách da màu đen nêu trên có trị giá 200.000 đồng.

Lần 2: Bị cáo T biết giáo viên của Trường đại học ngoại ngữ - Đại học Đ thường gửi xe mô tô tại trường không cần vé nên nảy sinh ý định trộm cắp xe để làm phương tiện đi lại. Khoảng 14h00' ngày 19/7/2023, bị cáo đi bộ đến nhà để xe giáo viên của Trường đại học ngoại ngữ, trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu Piagio Vespa, biển số 43D1 - xxxxx của chị Phạm Lý C. Sau khi trộm xe, bị cáo dắt bộ đến dựng tại chung cư Tân An, đường Tân An 4, phường Hoà Cường Bắc, quận C, thành phố Đ. Tiếp đó, bị cáo đến một tiệm sửa xe gần chợ Hoà Cường nói mất chìa khoá và nhờ người đến thay khoá xe với giá 700.000 đồng. Sau khi thay xong khoá xe, bị cáo điều khiển xe đến một tiệm sửa xe khác (không nhớ rõ địa chỉ) nhờ thợ tháo biển số xe để tránh bị phát hiện và điều khiển xe về cất tại phòng trọ tại K78/34/3 Lê Thanh Nghị, phường Hoà Cường Bắc, quận C, thành phố Đ. Ngày 21/7/2023, bị cáo sử dụng xe để đi lại thì bị Công an quận Cẩm Lệ phát hiện, mời về làm việc.

Theo Kết luận định giá tài sản số 59 ngày 18/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, UBND quận Cẩm Lệ, kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Piagio Vespa, màu xám, biển số 43 D1-xxxxx nêu trên có trị giá 38.475.000 đồng.

Vật chứng thu giữ:

- Bị cáo Đặng Trần T giao nộp:

+ 01 túi xách da màu đen, ghi chữ “Chanel”, có kích thước ngang 25 cm, cao 15 cm, có dây đeo bằng kim loại màu trắng được bọc bên ngoài dây da màu đen đã sử dụng, không rõ nguồn gốc, xuất xứ;

+ 01 CMND số 231179501; 01 CCCD số 03318701xxxxx; 01 giấy phép lái xe số 641098001944, đều mang tên Bùi Thị Y;

+ 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 81B2-xxxxx;

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu Piagio Vespa, màu xám, số khung: 2500HV003492, số máy: M82DM50004447;

+ 01 biển số xe 43D1 - xxxxx;

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Click, màu đỏ, số khung: RLHJF1803- AY763808, số máy: JF18E-0215400, biển số 74K7 - xxxxx;

+ 01 mũ bảo hiểm màu xanh; 01 váy màu xanh dương; 01 áo khoác dài tay màu xám, là trang phục bị cáo T mặc khi trộm cắp ngày 11/6/2023;

- Ông Hoàng Ngọc G giao nộp: 01 đĩa CD chứa đoạn video được trích xuất từ camera “IMOU” từ 09h40'8” đến 09h44'49" ngày 11/6/2023, ghi nhận sự việc trộm cắp tại ki ốt số 04 đường Hồ Nguyên Trùng, phường Hòa Cường Nam, quận C, thành phố Đ ngày 11/6/2023.

Quá trình điều tra, bị cáo Đặng Trần T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp như trên. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với vật chứng thu giữ, lời khai của bị hại, người liên quan và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Xử lý vật chứng:

- Cơ quan CSĐT Công an quận C đã trả lại cho bị hại:

+ Bùi Thị Y: 01 túi xách da màu đen, 01 CMND số 231179501, 01 CCCD số 03318701xxxxx, 01 giấy phép lái xe số 641098001944 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 81B2-xxxxx;

+ Phạm Lý C: 01 xe mô tô nhãn hiệu Piagio Vespa và 01 biển số xe 43D1 - xxxxx;

- Đối với xe mô tô biển số 74K7 - xxxxx: Do bà Nguyễn Thị Phương D (sinh năm: 1985; HKTT: Khu phố 4, thị trấn L, huyện O, tỉnh Quảng Trị) đứng tên chủ sở hữu. Năm 2019, bà Dung cho em gái là bà Nguyễn Thị Phương H (sinh năm: 1984; HKTT: Khu phố 4, thị trấn L, huyện O, tỉnh Quảng Trị). Năm 2020, bà H bán lại cho một người đàn ông tên N (không rõ lai lịch) tại Đ. Bị cáo T khai mượn xe của người phụ nữ tên H (không rõ lai lịch) để làm phương tiện đi lại. Chưa đủ căn cứ xác định chủ sở hữu hợp pháp nên Cơ quan CSĐT Công an quận C tiếp tục tạm giữ để điều tra, làm rõ và xử lý sau.

- Lưu theo hồ sơ vụ án: 01 đĩa CD chứa đoạn video ghi nhận vụ việc mất trộm tại tại ki ốt số 04 đường Hồ Nguyên Trùng, phường Hòa Cường Nam, quận C, thành phố Đ ngày 11/6/2023.

Toàn bộ vật chứng còn lại được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự quận C bảo quản, chờ xử lý.

Về dân sự: Bà Bùi Thị Y yêu cầu được bồi thường số tiền bị chiếm đoạt là 96.400.000 đồng; bà Phạm Lý C đã nhận lại xe và không yêu cầu bổi thường gì thêm.

Tại bản cáo trạng số 17/CT-VKS ngày 11/01/2024 Viện kiểm sát nhân dân quận C, thành phố Đ đã truy tố Đặng Trần T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2, Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Đặng Trần T từ 4 năm đến 4 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Về trách nhiệm dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo bồi thường cho bị hại Bùi Thị Y 96.400.000 đồng. Về xử lý vật chứng, đề nghị HĐXX căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên quy trữ vật chứng là đĩa CD nói trên kèm theo hồ sơ vụ án; Trả lại cho bị cáo 01 mũ bảo hiểm màu xanh; 01 váy màu xanh dương; 01 áo khoác dài tay màu xám, là trang phục bị cáo mặc khi trộm cắp ngày 11/6/2023.

- Bị cáo Đặng Trần T thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là đúng người, đúng tội, và xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

- Bị hại Phạm Lý C có mặt tại phiên tòa. Lời khai của bị hại phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của bị cáo. Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường, không có yêu cầu gì về hình phạt đối với bị cáo.

- Bị hại Bùi Thị Y vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai tại hồ sơ. Lời khai của bị hại phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của bị cáo. Bà Y yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 96.400.000 đồng và không có yêu cầu gì về hình phạt đối với bị cáo.

- Người làm chứng là ông Huỳnh Văn A có mặt tại phiên tòa và ông Hoàng Ngọc G vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai tại hồ sơ. Lời khai của những người làm chứng phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của bị cáo, bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có người nào ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ lời khai của bị cáo, lời khai của các bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan xác định:

Để có tiền tiêu xài và phương tiện đi lại, ngày 11/6/2023 và 19/7/2023, trên địa bàn các quận C và Cẩm Lệ, thành phố Đ, bị cáo Đặng Trần T đã 02 lần trộm cắp tài sản, gồm: 01 chiếc túi xách bên trong có tiền mặt của bà Bùi Thị Y với tổng trị giá 96.600.000 đồng; 01 xe mô tô của bà Phạm Lý C trị giá 38.475.000 đồng. Tổng trị giá tài sản T đã chiếm đoạt là 135.075.000 đồng.

Các hành vi nêu trên của bị cáo T đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, thuộc trường hợp chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng quy định tại điểm c, Khoản 2, Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của các bị cáo thì thấy các bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu trật tự trị an, xã hội tại địa phương. Do đó cần xử lý nghiêm đối với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Xét nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ thì thấy: Bị cáo đã có tiền án về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích, đã được giáo dục, răn đe và biết rất rõ hậu quả của hành vi phạm tội nhưng vẫn tiếp tục phạm tội mới. Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h, khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự và trường hợp phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

+ Cơ quan CSĐT Công an quận C đã trả lại cho bị hại Bùi Thị Y 01 túi xách da màu đen, ghi chữ “Chanel”, có kích thước ngang 25 cm, cao 15 cm, có dây đeo bằng kim loại màu trắng được bọc bên ngoài dây da màu đen đã sử dụng, không rõ nguồn gốc, xuất xứ; 01 CMND số 231179501; 01 CCCD số 03318701xxxxx; 01 giấy phép lái xe số 641098001944 đều mang tên Bùi Thị Y và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 81B2-xxxxx mang tên Nguyễn Thanh Hoàng; Trả lại cho bị hại Phạm Lý C 01 xe mô tô nhãn hiệu Piagio Vespa, màu xám, biển kiểm soát 43D1 - xxxxx, số khung: 2500HV003492, số máy: M82DM50004447 là đúng quy định.

+ Đối với 01 mũ bảo hiểm màu xanh; 01 váy màu xanh dương; 01 áo khoác dài tay màu xám, là trang phục bị cáo T mặc khi trộm cắp ngày 11/6/2023 cần trả lại cho bị cáo.

+ Đối với 01 đĩa CD chứa đoạn video được trích xuất từ camera “IMOU” từ 09h40'8” đến 09h44'49" ngày 11/6/2023, ghi nhận sự việc trộm cắp tại ki ốt số 04 đường Hồ Nguyên Trùng, phường Hòa Cường Nam, quận C, thành phố Đ ngày 11/6/2023 cần lưu trữ kèm hồ sơ vụ án.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Phạm Lý C đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường nên HĐXX không đề cập giải quyết. Bị hại Bùi Thị Y yêu cầu bị cáo T bồi thường 96.400.000 đồng, Yêu cầu của bà Y là có căn cứ, cần được chấp nhận. Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự, các Điều 584, 585, 589 Bộ luật dân sự buộc bị cáo T bồi thường cho bị hại Y số tiền nêu trên.

[7] Đối với xe mô tô biển số 74K7 - xxxxx: Do chị Nguyễn Thị Phương D (sinh năm: 1985; HKTT: Khu phố 4, thị trấn L, huyện O, tỉnh Quảng Trị) đứng tên chủ sở hữu. Năm 2019, chị D cho em gái là chị Nguyễn Thị Phương H (sinh năm: 1984; HKTT: Khu phố 4, thị trấn L, huyện O, tỉnh Quảng Trị). Năm 2020, chị H bán lại cho một người đàn ông tên T (không rõ lai lịch) tại Đ. Bị cáo T khai mượn xe của người phụ nữ tên H (không rõ lai lịch) để làm phương tiện đi lại. Chưa đủ căn cứ xác định chủ sở hữu hợp pháp nên Cơ quan CSĐT Công an quận C tiếp tục tạm giữ để điều tra, làm rõ và xử lý sau.

[8] Từ những nhận định trên, xét thấy lời luận tội của Viện kiểm sát nhân dân quận C về tội danh và áp dụng các điều luật cũng như đề nghị mức hình phạt là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí: Bị cáo Đặng Trần T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đặng Trần T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Căn cứ điểm c khoản 2, Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Đặng Trần T 4 (Bốn) năm tù. Thời hạn thi hành án phạt tù tính từ ngày 22/9/2023.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự, các Điều 584, 585, 589 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo Đặng Trần T phải bồi thường thiệt hại cho bị hại Bùi Thị Y số tiền 96.400.000 đồng.

3. Về xử lý vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự xử lý vật chứng như sau:

Lưu trữ kèm theo hồ sơ vụ án đối với: 01 đĩa CD chứa đoạn video được trích xuất từ camera “IMOU” từ 09h40'8” đến 09h44'49" ngày 11/6/2023, ghi nhận sự việc trộm cắp tại ki ốt số 04 đường Hồ Nguyên Trừng, phường Hòa Cường Nam, quận C, thành phố Đ.

Trả lại cho bị cáo 01 mũ bảo hiểm màu xanh; 01 váy màu xanh dương; 01 áo khoác dài tay màu xám, là trang phục T mặc khi trộm cắp ngày 11/6/2023.

(Các vật chứng nêu trên hiện nay Chi cục thi hành án dân sự quận C đang quản lý theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 26 tháng 01 năm 2024)

4. Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Đặng Trần T phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 4.820.000 đồng (Bốn triệu tám trăm hai mươi ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người tham gia tố tụng có mặt có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 46/2024/HS-ST

Số hiệu:46/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về