TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 45/2023/HS-ST NGÀY 16/03/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 16 tháng 3 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Rạch Giá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 209/2022/HSST ngày 27/10/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 286/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Văn S, sinh năm 1987; Tên gọi khác: S Lùn; Quê quán: Rạch Giá – Kiên Giang; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT: 33/33 Vàm Trư, phường Q, TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang; tạm trú: nhà trọ M số 78 đường Hai Bà Trưng, phường Q, Rạch Giá, Kiên Giang. Quốc tịch: Việt Nam – Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không – Trình độ học vấn: 5/12; Con ông Trần Văn Trà (đã chết) và con bà Dương Thị Nữa, sinh năm 1954; Anh, chị, em ruột có 03 người, lớn nhất 39 tuổi, nhỏ nhất 32 tuổi; Vợ: không; tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 18/7/2022. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Rạch Giá. Bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên toà.
- Tiền án:ngày 10/8/2016 bị Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma Ty” theo Bản án số 69/2016/HSST ngày 10/8/2016, đến ngày 10/02/2021 chấp hành xong hình phạt tù, chưa xóa án tích.
-Nhân thân:
+ Ngày 06/12/2003 bị Ủy ban nhân dân thị xã (nay là thành phố) Rạch Giá đưa vào Trường giáo dưỡng 24 tháng về hành vi “Gây rối trật tự công cộng” theo Quyết định 927, ngày 03/12/2003 đến ngày 06/02/2006 chấp hành xong (đã xóa tiền sự).
+ Ngày 26/11/2006 bị Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang đưa vào Trường giáo dưỡng 24 tháng về hành vi “Gây rối trật tự công cộng” theo Quyết định 1910, ngày 22/11/2006 đến ngày 26/11/2008 chấp hành xong (đã xóa tiền sự).
+ Ngày 04/5/2013 bị Ủy ban nhân dân thành phố Rạch Giá đưa vào Trường giáo dưỡng 24 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma Ty” theo Quyết định 541, ngày 04/4/2013 đến ngày 17/3/2015 chấp hành xong (đã xóa tiền sự).
+ Ngày 18/7/2022, có hành vi Trộm cắp tài sản bị tạm giữ đến ngày 22/7/2022, bị khởi tố, tạm giam theo lệnh số 89, ngày 22/7/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá. Hiện bị can đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Rạch Giá.
* Người bị hại:
+ Ông Nguyễn Minh V, sinh năm 1999 (vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Lô 8 – căn 20 H, phường Q, TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
+ Ông Phạm Minh T, sinh năm 1987; (vắng mặt) Địa chỉ cư trú: tổ 22 khu phố A, thị trấn Minh Lương, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Lê Tấn T, sinh năm 1978 (vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Số X, Tổ Y, thị trấn Sóc Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang
+ Ông Trần Tuấn K, sinh năm 1974 (vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Số Z, đường C, phường Q, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang
* Người làm chứng:
+ ông Hồ Xuân H, sinh năm: 1961 Địa chỉ: Số 777/1, đường C, phường Q, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
+ ông Huỳnh Văn N, sinh năm: 1982 Địa chỉ: Khu phố T, thị trấn Sóc Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 07 giờ ngày 18/7/2022, do có ý định tìm tài sản của người dân để sơ hở lấy trộm bán lấy tiền tiêu xài cá nhân và mua ma Ty sử dụng nên Trần Văn S đã thuê người chạy xe ôm tên Hồ Xuân H chở S đi từ nhà trọ đang thuê ở đến cửa hàng bán bia H do ông Nguyễn Minh V, sinh năm 1999 tại địa chỉ Lô 8- Căn 20, đường H, phường Q, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang làm chủ, khi đến phía trước cửa hàng bán bia H thì S kêu ông H đậu xe bên ngoài chờ, còn S đi vào bên trong cửa hàng lén lút lấy trộm một thùng bia nhãn hiệu “BIA RED RUBY330ML (24L/TH)”, chưa qua sử dụng rồi mang ra khỏi cửa hàng, để thùng bia ở vị trí giữa yên xe, S ngồi phía sau ôm thùng bia và kêu ông H chạy đi (ông H không biết S vào cửa hàng bia trộm cắp) thì bị ông V chủ cửa hàng phát hiện truy đuổi bắt giữ S cùng tang vật giao cho Công an phường Q. Tại Cơ quan Công an Trần Văn S thừa nhận hành vi phạm tội của mình.
Ngoài ra, S còn khai nhận ngoài lần trộm cắp tài sản bị bắt quả tang nêu trên thì S còn thực hiện một vụ trộm cắp tài sản khác cụ thể:
Vào khoảng 05 giờ 20 phút ngày 18/5/2022, S đi bộ từ nhà trọ M ở số 78, đường Hai Bà Trưng, phường Q, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang đến nhà số 100, đường Lý Chính Thắng, phường Q, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang quan sát thấy có một xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu Xanh- Đen-Bạc, biển kiểm soát 68S1-xxxxx có gắn sẵn chìa khóa trong ổ khóa trên xe là tài sản của ông Phạm Minh T, sinh năm 1997; nơi ở: Tổ 22, khu phố A, thị trấn Minh Lương, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang (ông T mua xe cũ của tiệm cầm đồ lại để sử dụng, chưa S tên chính chủ) đang đậu dưới lề đường, không có người trông coi nên S đã lén lút lấy trộm rồi điều khiển xe đến thị trấn Sóc Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang nhờ bạn của S tên Huỳnh Văn N, sinh năm 1982 ở khu phố T, thị trấn Sóc Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang (N không biết tài sản do S trộm cắp mà có) dẫn đến tiệm mua bán xe cũ T tại địa chỉ số 586, thị trấn Sóc Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang bán cho ông Lê Tấn T, sinh năm 1978 là chủ tiệm với giá là 11.000.000 đồng (ông T không biết tài sản trên do S trộm cắp mà có). Đến ngày 19/5/2022, ông T đem xe trên bán lại cho tiệm mua bán xe cũ P tại số 855B, đường C, phường Q, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang cho ông Trần Tuấn K, sinh năm 1974 là chủ tiệm với giá 12.300.000 đồng (mười hai triệu ba trăm nghìn đồng). Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá đã làm việc với ông Trần Tuấn K, sau khi biết được tài sản là tang vật liên quan đến hành vi phạm tội của Trần Văn S nên ông K đã tự nguyện giao nộp lại xe mô tô biển kiểm soát 68S1- xxxxx cho Cơ quan điều tra Công an thành phố Rạch Giá.
Ngày 18/7/2022, Trần Văn S bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá tạm giữ đến ngày 22/7/2022 bị khởi tố và tạm giam để điều tra.
* Việc thu giữ tài liệu, đồ vật và xử lý vật chứng:
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá đã thu giữ 01 (một) thùng bia nhãn hiệu “BIA RED RUBY330ML (24L/TH)”, chưa qua sử dụng; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển kiểm soát 68S1-xxxxx, số loại Wave, màu Xanh-Đen-Bạc, số máy JA39E1397483, số khung 3918LY061293, đã qua sử dụng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá đã trả lại cho bị hại Nguyễn Minh V một thùng bia nhãn hiệu “BIA RED RUBY330ML (24L/TH)”, chưa qua sử dụng; trả lại cho bị hại Phạm Minh T một xe mô tô biển kiểm soát 68S1-xxxxx, nhãn hiệu Honda, số loại Wave, màu Xanh-Đen-Bạc, số máy JA39E1397483, số khung 3918LY061293, đã qua sử dụng theo Quyết định xử lý vật chứng số 105, ngày 25/7/2022.
* Tại bản kết luận định giá tài sản số 85/KL-HĐĐGTS ngày 22/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Rạch Giá kết luận: 01 (một) thùng bia nhãn hiệu “BIA RED RUBY330ML (24L/TH)”, chưa qua sử dụng có giá trị tại thời điểm ngày 18/7/2022 là 185.000 đồng (một trăm tám mươi lăm nghìn đồng); 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 68S1-xxxxx, số loại Wave, màu Xanh-Đen-Bạc, số máy JA39E1397483, số khung 3918LY061293, đã qua sử dụng có giá trị tại thời điểm ngày 18/5/2022 là 14.733.000 đồng (mười bốn triệu bảy trăm ba mươi ba nghìn đồng). Tổng giá trị tài sản do Trần Văn S chiếm đoạt qua định giá là 14.918.000 đồng (mười bốn triệu chín trăm mười tám nghìn đồng).
* Tại bản cáo trạng số 227/CT-VKSTPRG ngày 27/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá đã truy tố Trần Văn S về tội: Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Trần Văn S phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Về hình phạt: Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để tuyên phạt cho bị cáo Trần Văn S mức án từ 09 tháng đến 12 tháng tù; Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã xử lý đúng quy định nên không đề nghị xem xét; Về trách nhiệm dân sự: bị hại Nguyễn Minh V và Phạm Minh T đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì khác nên không đề nghị xem xét; Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Tấn T yêu cầu bị can Trần Văn S trả lại số tiền 11.000.000 đồng (mười một triệu đồng) mà ông T đã trả tiền mua xe cho S, S đồng ý trả lại số tiền trên theo yêu cầu của ông T nhưng đến nay vẫn chưa có tiền trả lại; Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Tuấn K và Lê Tấn T đã tự thỏa thuận với nhau về số tiền giao dịch mua bán xe do Trần Văn S trộm cắp mà có và không có yêu cầu gì khác nên không xem xét, giải quyết.
Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Rạch Giá, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiền hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét thấy, Trần Văn S là đối tượng không có nghề nghiệp, đã có 01 tiền án chưa được xóa án tích, do muốn có tiền tiêu xài cá nhân từ nguồn thu nhập bất chính nên vào khoảng 07 giờ ngày 18/7/2022, Trần Văn S đã thuê người chạy xe ôm tên Hồ Xuân H chở đi từ Nhà trọ M ở số 78, đường Hai Bà Trưng, phường Q, thành phố Rạch Giá đến cửa hàng bán bia H tại địa chỉ Lô 8- Căn 20, đường H, phường Q, thành phố Rạch Giá rồi S một mình đi vào bên trong cửa hàng lén lút lấy trộm một thùng bia nhãn hiệu “BIA RED RUBY330ML (24L/TH)” chưa qua sử dụng mang ra để lên xe của ông H tẩu thoát thì bị ông Nguyễn Minh V là chủ cửa hàng phát hiện truy đuổi bắt giữ S cùng tang vật giao cho cơ quan Công an. Tài sản là một thùng bia do Trần Văn S chiếm đoạt được qua định giá có giá trị là 185.000 đồng (một trăm tám mươi lăm nghìn đồng).
Ngoài lần trộm cắp tài sản bị bắt quả tang nêu trên thì Trần Văn S còn khai nhận vào khoảng 05 giờ 20 phút ngày 18/5/2022, S đi bộ từ nhà trọ M ở số 78, đường Hai Bà Trưng, phường Q, thành phố Rạch Giá đến nhà số 100, đường Lý Chính Thắng, phường Q, thành phố Rạch Giá, lấy trộm một xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại số Wave, màu Xanh-Đen-Bạc, biển kiểm soát 68S1-xxxxx có gắn sẵn chìa khóa trên xe của ông Phạm Minh T đang đậu dưới lề đường. Sau khi lấy trộm được tài sản, S đã điều khiển xe đến thị trấn Sóc Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang nhờ người bạn tên Huỳnh Văn N (ông N không biết tài sản do S trộm cắp mà có) dẫn đến tiệm mua bán xe cũ T tại địa chỉ số F, thị trấn Sóc Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang bán cho ông Lê Tấn T là chủ tiệm, với giá là 11.000.000 đồng (ông T không biết tài sản do S trộm cắp mà có). Đến ngày 19/5/2022, ông T đem xe trên bán lại cho tiệm mua bán xe cũ P tại số 855B, đường C, phường Q, thành phố Rạch Giá cho ông Trần Tuấn K với giá 12.300.000 đồng. Tài sản là một xe mô tô do Trần Văn S chiếm đoạt được qua định giá có giá trị là 14.733.000 đồng (mười bốn triệu bảy trăm ba mươi ba nghìn đồng).
Tổng giá trị tài sản do Trần Văn S chiếm đoạt được qua hai lần trộm cắp qua định giá có giá trị là 14.918.000 đồng (mười bốn triệu chín trăm mười tám nghìn đồng).
Hành vi trên của bị cáo Trần Văn S đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm về tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Do đó, bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá đã truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như đã viện dẫn trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.
[3] Xét tính chất mức độ thực hiện hành vi phạm tội, về nhân thân, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo ý thức được việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật. Nhưng vì mục đích muốn có tiền tiêu xài mà không phải bỏ công sức lao động chân chính, bị cáo bất chấp pháp luật thực hiện hành vi lén lút trộm cắp nhằm chiếm đoạt tài sản của những người bị hại một cách trái pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo với lỗi cố ý trực tiếp đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của những người bị hại được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, gây tâm hoang mang lo lắng của quần chúng nhân dân.
Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cần có hình phạt tương xứng để răn đe đối với các bị cáo, đồng thời cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tính giáo dục, cải tạo các bị cáo trở nên một công dân tốt, đồng thời có tác dụng răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nên áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại các điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS khi lượng hình.
[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo Trần Văn S không có nghề nghiệp; thu nhập không ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo khoản 5 Điều 173 Bộ Luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017 đối với các bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự:
Các bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm, nên HĐXX không xem xét.
Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Trần Văn S trả ông Lê Tấn T số tiền 11.000.000 đồng (mười một triệu đồng);
Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Tuấn K và Lê Tấn T đã tự thỏa thuận với nhau về số tiền giao dịch mua bán xe do Trần Văn S trộm cắp mà có và không có yêu cầu gì khác nên không xem xét, giải quyết.
[6] Về xử lý vật chứng:
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá đã trả lại cho bị hại Nguyễn Minh V một thùng bia nhãn hiệu “BIA RED RUBY330ML (24L/TH)”, chưa qua sử dụng;
Đối với xe mô tô biển kiểm soát 68S1-xxxxx, qua xác minh đã xác định được là tài sản của ông Sự đứng tên nhưng ông Sự trình bày thể hiện tại biên bản ghi lời khai ngày 30/11/2022 thì xe mô tô trên đã cho anh vợ của mình tên là Hà Mỹ Dình mượn vào khoảng tháng 7/2021 và không có trả lại cho Sự, sau đó Dình phạm tội Trộm cắp tài sản, đang chấp hành án phạt tù tại Thành phố Hà Nội, chưa mãn hạn tù, chưa trở về địa phương nên Sự không biết Dình đã đem xe của mình đi bán hay cầm cố và ông Sự không có yêu cầu xem xét hay nhận lại tài sản trên và cũng không có yêu cầu gì khác nên không đề nghị xem xét nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá đã trả lại cho bị hại Phạm Minh T một xe mô tô biển kiểm soát 68S1-xxxxx, nhãn hiệu Honda, số loại Wave, màu Xanh-Đen-Bạc, số máy JA39E1397483, số khung 3918LY061293, đã qua sử dụng theo Quyết định xử lý vật chứng số 105, ngày 25/7/2022.
Xét thấy Cơ quan điều tra Công an thành phố Rạch Giá đã xử lý đúng quy định pháp luật nên HĐXX không xét.
[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 199 BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về án phí lệ phí Tòa án.
Bị cáo Trần Văn S phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt: Bị cáo Trần Văn S 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 18/7/2022.
* Về trách nhiệm dân sự :
Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Trần Văn S chấp nhận trả ông Lê Tấn T số tiền 11.000.000 đồng (mười một triệu đồng), thực hiện khi án có hiệu lực pháp luật.
* Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Trần Văn S phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
* Quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 16/3/2023). Riêng người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 45/2023/HS-ST
Số hiệu: | 45/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về