TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH - TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 44/2021/HS-ST NGÀY 16/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 16 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2021/TLST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:
Nguyễn Hoàng M, sinh năm 1993 tại Đồng Nai;
Nơi đăng ký thường trú: F7, Ấp 2, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Tấn A và bà Nguyễn Thị H; Gia đình bị cáo có 04 chị em, bị cáo là con nhỏ nhất; Bị cáo sống chung như vợ chồng với chị Đinh Thị Cẩm D, sinh năm 1995 (không đăng ký kết hôn, đã bỏ đi sau khi sinh con); Có 01 con tên Nguyễn Hoàng Anh K, sinh năm 2018 (con chung với chị D).
Tiền án: Ngày 26/02/2019, bị Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 20/2019/HS-ST (đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/11/2019).
Tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 29/10/2020 đến ngày 06/11/2020 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ. Bị cáo đang cư trú tại địa chỉ F7, Ấp 2, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai (Có mặt).
- Bị hại:
+ Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1993 (có mặt).
+ Chị Phan Thị Bích N, sinh năm 1996 (có mặt). Cùng địa chỉ: Ấp 6, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
- Người làm chứng: Anh Hoàng Trọng P, sinh năm 1996. Địa chỉ: Ấp 3, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Hoàng M không có nghề nghiệp và có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích. Lúc 14 giờ ngày 29/10/2020, T (không rõ nhân thân, lai lịch) điều khiển xe mô tô Sirius, màu cam (không rõ biển số) của T chở M đi ngang qua nhà vợ chồng anh Nguyễn Văn D và chị Phan Thị Bích N ở ấp 6, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai thấy cửa khóa, không có người trông coi nên T rủ M trộm cắp tài sản nhà anh D thì M đồng ý. T đứng ngoài cảnh giới, M dùng 01 cây sắt dài khoảng 30 cm phá khóa cửa chính, vào phòng ngủ lấy 230.000 đồng của chị Phan Thị Bích N; 01 một số giấy tờ cá nhân mang tên Nguyễn Văn D cho vào túi quần. Khi chuẩn bị bỏ đi, M bị gia đình anh D phát hiện nên M ném số tiền 230.000 đồng cùng giấy tờ vừa trộm được vào phía sau tủ lạnh của gia đình anh D. Cùng lúc đó, vợ chồng anh D khóa cửa phía ngoài, đồng thời báo Công an xã Tân Hiệp đến bắt giữ và lập biên bản phạm tội quả tang cùng vật chứng.
Về vật chứng vụ án:
- 01 cây sắt dài khoảng 30 cm là công cụ M sử dụng vào việc phạm tội nhưng không thu giữ được.
- Số tiền 230.000 đồng M trộm cắp của chị Phan Thị Bích N nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành đã trả lại cho chị N vào ngày 21/12/2020.
- 01 giấy phép lái xe hạng D, 01 giấy phép lái xe hạng A1 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô đều mang tên Nguyễn Văn D, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành đã trả lại cho anh D vào ngày 21/12/2020.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh D và chị N yêu cầu bị cáo M bồi thường 1.500.000 đồng chi phí thay mới khóa cửa chính, khóa cửa phòng ngủ và sửa chữa lỗ thông gió nhà vệ sinh.
Ngày 23/12/2020, bà Nguyễn Thị H là mẹ ruột của bị cáo M đã nộp số tiền 1.500.000 đồng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành để bồi thường cho anh D và chị N. Số tiền trên đã được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Thành theo biên lai thu tiền số 06902 ngày 02/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành để đảm bảo cho việc thi hành án. Tại phiên tòa, bà H trình bày số tiền trên là của bị cáo M, bà chỉ đi nộp thay cho bị cáo và bà đồng ý dùng số tiền trên để bồi thường cho chị N, anh D.
Tại Cáo trạng số 24/CT-VKSLT ngày 12 tháng 01 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng M về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Long Thành giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng M về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng M từ 08 (tám) đến 10 (mười) tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị buộc bị cáo bồi thường theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.
[2] Về chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội và điều luật áp dụng:
Bị cáo Nguyễn Hoàng M là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hoàng M khai nhận: Bị cáo đã bị kết án 01 lần về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích. Do không có nghề nghiệp ổn định nên vào lúc 14 giờ ngày 29/10/2020 tại nhà của vợ chồng anh Nguyễn Văn D và chị Phan Thị Bích N tại ấp 6, xã T, huyện L, bị cáo có hành vi lén lút chiếm đoạt số tiền 230.000 đồng (hai trăm ba mươi nghìn đồng) của chị N và 01 giấy phép lái xe hạng D, 01 giấy phép lái xe hạng A1, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô đều mang tên Nguyễn Văn D.
Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Hoàng M đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:
Tính chất vụ án là ít nghiêm trọng nhưng hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, tác động xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng do có tư tưởng hưởng thụ, muốn chiếm đoạt tài sản của người khác để tiêu xài nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Do đó, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện bồi thường số tiền 1.500.000 đồng theo yêu cầu của bị hại là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[5] Về trách nhiệm dân sự:
Bị hại anh Nguyễn Văn D và chị Phan Thị Bích N yêu cầu bị cáo bồi thường 1.500.000 đồng chi phí thay mới khóa cửa chính, khóa cửa phòng ngủ và sửa chữa lỗ thông gió nhà vệ sinh. Tại phiên tòa, bị cáo đồng ý bồi thường số tiền 1.500.000 đồng cho chị N, anh D nên ghi nhận và buộc bị cáo bồi thường cho chị N, anh D số tiền 1.500.000 đồng.
Đối với số tiền 1.500.000 đồng do bà Nguyễn Thị H nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành đã được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Thành theo biên lai số 06902 ngày 02/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành được đảm bảo thi hành án.
[6] Về biện pháp tư pháp:
Đối với 01 cây sắt dài khoảng 30 cm là công cụ bị cáo M sử dụng vào việc phạm tội nhưng không thu giữ được.
Đối với số tiền 230.000 đồng, bị cáo trộm cắp của chị Phan Thị Bích N nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành đã trả lại cho chị N vào ngày 21/12/2020 là có căn cứ.
Đối với 01 giấy phép lái xe hạng D, 01 giấy phép lái xe hạng A1 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô đều mang tên Nguyễn Văn D, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành đã trả lại cho anh D vào ngày 21/12/2020 là có căn cứ.
[7] Đối với người thanh niên tên T đồng phạm với bị cáo M thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhưng không rõ nhân thân, lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh, điều tra xử lý sau.
[8] Về án phí Tòa án:
Bị cáo Nguyễn Hoàng M phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Đối với nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho anh D và chị N 1.500.000 đồng do bị cáo M đã tự nguyện nộp 1.500.000 đồng bồi thường thiệt hại trước khi mở phiên tòa nên bị cáo không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền này.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng M 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt chấp hành án, được trừ vào thời gian tạm giữ từ ngày 29/10/2020 đến ngày 06/11/2020.
2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Buộc bị cáo Nguyễn Hoàng M bồi thường cho chị Phan Thị Bích N và anh Nguyễn Văn D số tiền 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng).
Số tiền 1.500.000 đồng do bà Nguyễn Thị H nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành đã được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Thành theo biên lai số 06902 ngày 02/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành được đảm bảo thi hành án.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Về án phí Tòa án: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nguyễn Hoàng M phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Hoàng M, bị hại anh Nguyễn Văn D, chị Phan Thị Bích N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 44/2021/HS-ST
Số hiệu: | 44/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về