Bản án về tội trộm cắp tài sản số 43/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 43/2023/HS-PT NGÀY 30/03/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 3 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 30/2023/TLPT-HS ngày 27 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Văn H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 02/2023/HS-ST ngày 11 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Tiền Giang.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Văn H, sinh năm 1971 tại Tiền Giang; Nơi cư trú: ấp T, xã LA, huyện T, tỉnh Tiền Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 2/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn Đ (chết) và bà Nguyễn Thị B; Bị cáo có vợ tên Huỳnh Thị K và 03 con; tiền án: không, tiền sự: không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

- Ngoài ra, bản án còn có bị hại; 03 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng không có kháng cáo; bản án không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn H, là người lái Kobe thuê cho công trình của bà Đặng Thị V. Qua thời gian làm việc, Nguyễn Văn H biết bà V có mua 02 sợi dây xích Kobe bằng sắt và để tại bãi đất trống kế bên công ty B tại ấp HB, xã BN, huyện Đ, tỉnh Tiền Giang, do anh Đỗ Long H quản lý. Ngày 22/12/2021, Nguyễn Văn H nảy sinh ý định trộm lấy 02 sợi dây xích để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân, Nguyễn Văn H đã gọi điện thoại cho anh Huỳnh Phúc T là chủ xe cẩu hàng để thuê anh T đến chở 02 sợi dây xích về công ty ở MT, anh T đồng ý. Đến sáng ngày 23/12/2021, Nguyễn Văn H tiếp tục gọi anh T đến chở 02 sợi dây xích Kobe. Sau khi cẩu 02 sợi dây xích lên xe thì anh T chở đến gần cây xăng quân đội trên Quốc lộ 50 đoạn thuộc địa phận xã MP, thành phố MT, tỉnh Tiền Giang thì Nguyễn Văn H ra đón và kêu anh T chở lại vựa ve chai gần đó. Nguyễn Văn H vào vựa ve chai gặp anh Lê Văn Ngọc A, là chủ vựa và bán 02 sợi dây xích trên cho anh A với số tiền 10.000.000 đồng, H trả cho anh T 1.500.000 đồng tiền xe, số tiền còn lại H đã tiêu xài cá nhân hết. Sau đó, anh A đem 02 sợi dây xích bán cho bãi thu gôm sắt gần cầu L, thuộc huyện L, tỉnh Long An do ông Nguyễn B làm chủ.

Theo Kết luận định giá tài sản số 73/KL-HĐĐGTS ngày 09/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đ thì 02 (hai) dây xích lá bằng sắt của Kobe sumi 260 (mua cũ) có giá 16.200.000 đồng.

Đối với anh Huỳnh Phúc T và anh Lê Văn Ngọc A không biết 02 sợi dây xích là do Nguyễn Văn H trộm cắp mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không truy cứu trách nhiệm là có cơ sở.

* Về vật chứng:

Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Đ đã ra thông báo truy tìm vật chứng của vụ án là 02 sợi dây xích lá bằng sắt của Kobe Sumi 260 và xác minh dọc theo Quốc lộ 1A đoạn thuộc thị trấn L, huyện L, tỉnh Long An thì không có cơ sở kinh doanh nào thu mua phế liệu sắt vụn tên là Nguyễn B, nên không thu giữ được vật chứng của vụ án.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2023/HSST ngày 11 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Tiền Giang đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 06 (sáu) tháng tù. Thời gian tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về phần trách nhiệm dân sự, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 27 tháng 01 năm 2023, bị cáo Nguyễn Văn H kháng cáo với nội dung:

Xin được hưởng án treo.

- Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn H vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang trong phần tranh luận phát biểu quan điểm giải quyết vụ án đã phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân cùng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo, mức án Tòa án cấp sơ thẩm tuyên đối với bị cáo là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới nên kháng cáo của bị cáo là không có căn cứ. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng Hình sự không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo trình bày lời nói sau cùng: Bị cáo ăn năn, hối cải xin được hưởng án treo để lo cho gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn H đã thừa nhận hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng và bản án sơ thẩm đã nêu, lời thừa nhận của bị cáo phù hợp với lời khai người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã thể hiện: Vào sáng ngày 23/12/2021, tại ấp HB, xã BN, huyện Đ, tỉnh Tiền Giang, Nguyễn Văn H đã lén lút trộm cắp 02 sợi dây xích lá bằng sắt máy Kobe Sumi 260 của bà Đặng Thị V. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 16.200.000 đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, xuất phát từ bản tính tham lam, lười lao động bị cáo đã lén lút lấy trộm của bà V 02 sợi dây xích lá bằng sắt máy Kobe, tài sản mà bị cáo chiếm đoạt là loại cồng kềnh nhưng bị cáo lại liều lĩnh lấy trộm vào ban ngày mà không sợ bị phát hiện chứng tỏ rất xem thường pháp luật, cho nên phải được xử lý bằng pháp luật hình sự để cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện.

[3] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Hội đồng xét xử nhận thấy: Khi quyết định hình phạt cấp sơ cấp đã xem xét đánh giá đúng tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi do bị cáo thực hiện cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xử phạt bị cáo mức án 06 tháng tù là phù hợp, cho bị cáo hưởng án treo sẽ không nghiêm và thiếu tính răn đe phòng ngừa. Hơn nữa từ khi xét xử sơ thẩm đến nay, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới nên yêu cầu kháng cáo của bị cáo không có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[6] Xét ý kiến và đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, phù hợp nhận định trên nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H.

Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 02/2023/HSST ngày 11 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Tiền Giang đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 06 (sáu) tháng tù. Thời gian tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án.

2.Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

294
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 43/2023/HS-PT

Số hiệu:43/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:30/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về