Bản án về tội trộm cắp tài sản số 43/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ GIA MẬP, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 43/2022/HS-ST NGÀY 09/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 09 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 46/2022/TLST-HS ngày 17 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2022/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 8 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Xuân H (Tên gọi khác: U), sinh năm 1995, tại Bình Phước; Nơi cư trú: Thôn 2, xã Đ, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Xuân D và bà Nguyễn Thị Kim Th; nhân thân: Ngày 24/9/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng theo Bản án số 147/2013/HSST ngày 24/9/2013 về hành vi trộm cắp T sản; ngày 29/8/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập xử phạt 12 tháng tù theo Bản án số 29/2017/HSST ngày 29/8/2017 về hành vi trộm cắp T sản; tiền án: Ngày 07/8/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập xử phạt 09 tháng tù theo Bản án số 40/2020/HS-ST ngày 07/8/2020 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt T sản; tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/5/2022 cho đến nay; “có mặt”.

2. Võ Tấn T, sinh năm 1999, tại Bình Phước; Nơi cư trú: Thôn B, xã P, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Tấn C và bà Nguyễn Thị L; có vợ là Ngô Hồng M và có 02 con nhỏ, sinh năm 2017 và năm 2019; nhân thân: ngày 31/12/2014 bị Công an huyện Bù Gia Mập xử phạt vi phạm hành chính với hình thức cảnh cáo theo Quyết định số 28/QĐ ngày 31/12/2014 về hành vi cố ý gây thương tích; ngày 16/5/2016 bị Công an huyện Bù Gia Mập xử phạt vi phạm hành chính, phạt số tiền 750.000 đồng theo Quyết định số 54/QĐXPVPKLBB ngày 16/5/2016 về hành vi trộm cắp T sản; ngày 06/7/2022 bị Công an huyện Bù Gia Mập xử phạt vi phạm hành chính, phạt số tiền 2.500.000 đồng theo Quyết định số 25/QĐ-XPHC ngày 06/7/2022 về hành vi trộm cắp T sản; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/6/2022 cho đến nay; “có mặt”.

Bị hại: Chị Nguyễn Phương U, sinh năm 2002; trú tại: Thôn 02, xã Đ, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước “vắng mặt” Người tham gia tố tụng khác: Người làm chứng:

Bà Nguyễn Ngọc Đ, sinh năm 1995; trú tại: Thôn 02, xã Đ, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước “vắng mặt” Người chứng kiến:

Bà Nguyễn Thị Kim Th, sinh năm 1970; trú tại: Thôn 02, xã Đ, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước “vắng mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 15 phút ngày 31/5/2022 Võ Tấn T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Blade (không có biển số) chở Nguyễn Xuân H đi chơi, khi đi ngang qua tiệm tóc “A” tại thôn 2, xã Đ, huyện Bù Gia Mập thì phát hiện 01 xe mô tô nhãn hiệu Future màu xám, BSKS: 93G1-056.79 của chị Nguyễn Phương U để bên hông tiệm tóc “A” không có người trông coi, T nảy sinh ý định trộm cắp xe mô tô trên để lấy tiền tiêu xài nên T rủ H trộm xe thì H đồng ý. Sau đó T chở H đi đổ xăng và mua một cái “điếu” (để lắp giáp với một đoạn đoản thành đoản bẻ khóa) và quay lại tiệm tóc “A” để lấy trộm xe. Khi đến nơi T đợi ở ngoài đường và đưa đoản khóa cho H đi vào bẻ khóa xe. H cầm đoản phá khóa đi đến rồi đưa đầu dẹp của đoản vào ổ khóa của xe mô tô nhãn hiệu Future màu xám, BSKS:

93G1-056.79 vặn mạnh làm bung ổ khóa xe, sau đó H dắt lùi xe ra ngoài đường thì bị chị U và chị Đ phát hiện và truy hô, H liền bỏ chạy ra ngoài ngồi lên xe T chở để tẩu thoát.

Lúc này, tổ công tác của Công an xã Đ đang đi làm nhiệm vụ, phát hiện liền truy đuổi đến đoạn đường Thộc thôn 3, xã Đ thì bắt giữ được H, còn T đã trốn. Đến ngày 02/6/2022 T đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Bù Gia Mập đầu thú khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng Th giữ gồm: 01 Xe mô tô nhãn hiệu Wave Blade màu đen, không biển số, 01 xe mô tô hiệu Future BSKS: 93G1-056.79, 01 áo khoác jean màu xám của H.

Theo kết luận định giá T sản số 13 ngày 02/6/2022 của Hội đồng định giá T sản trong tố tụng hình sự huyện Bù Gia Mập kết luận: tại thời điểm ngày 31/5/2022 giá trị T sản của 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Future màu đen – vàng – xám, BSKS: 93G1-05679 có trị giá là 12.500.000 đồng.

Bản Cáo trạng số 43/CTr-VKS ngày 16/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước truy tố các bị cáo Nguyễn Xuân H, Võ Tấn T về tội “Trộm cắp T sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ ngU quan điểm truy tố đối với các bị cáo như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo H từ 12 tháng đến 16 tháng tù và áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo T từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 áo khoác jean màu xám.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Xuân H và Võ Tấn T đã khai nhận bản thân đã thực hiện hành vi trộm cắp T sản của bị hại theo đúng nội dung Cáo trạng đã truy tố. Nay các bị cáo đã nhận biết hành vi của mình là trái pháp luật, xin Hội đồng xét xử xử phạt các bị cáo một mức án thấp để các bị cáo có cơ hội sửa sai.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Bù Gia Mập, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ và tội danh đối với hành vi của các bị cáo: Xét thấy các chứng cứ, chứng minh hành vi phạm tội của các bị cáo đã được Th thập có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa như: Biên bản khám nghiệm hiện trường; kết luận định giá T sản; lời khai của bị hại; người làm chứng phù hợp về thời gian, địa điểm thực hiện hành vi phạm tội, vật chứng của vụ án. Do đó có đủ cơ sở kết luận: Do muốn có tiền để tiêu xài cá nhân nên ngày 31/5/2022 Nguyễn Xuân H và Võ Tấn T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 xe mô tô nhãn hiệu Future BSKS 93G1-056.79 của chị Nguyễn Phương U tại thôn 2, xã Đ, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước, xe có giá trị 12.500.000 đồng.

Đối chiếu hành vi nêu trên của các bị cáo so với những quy định của pháp luật thì hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp T sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về T sản của bị hại là khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, do mong muốn có tiền tiêu xài nên các bị cáo đã cố ý thực hiện việc phạm tội.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm nên cần xử phạt các bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi và hậu quả do các bị cáo gây ra, nhằm giáo dục các bị cáo có ý thức tôn trọng pháp luật và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét:

Đối với bị cáo Nguyễn Xuân H: quá trình điều tra xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Đối với bị cáo Võ Tấn T: bị cáo phạm tội lần đầu và Thộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đầu thú là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách hiệm hình sự.

[4] Xét thấy đây là vụ án đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo T là người khởi xướng việc trộm cắp, còn bị cáo H là người trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo H từ 12 tháng đến 16 tháng tù và bị cáo T từ 06 tháng đến 09 tháng tù là đúng quy định pháp luật và phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Xét về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 triệu đồng”. Do đó Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Nguyễn Phương U không có yêu cầu bồi thường thiệt hại gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 Xe mô tô nhãn hiệu Wave Blade màu đen, không biển số là phương tiện các bị can sử dụng vào việc phạm tội, quá trình điều tra xác định đây là T sản hợp pháp của bà Nguyễn Thị Kim Th (mẹ của Nguyễn Xuân H), H mượn xe và sử dụng xe vào mục đích phạm tội thì bà Th không biết. Ngày 28/7/2022 Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô trên cho bà Th nên Hội đồng xét xử không xử lý lại.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Future màu xám, BSKS: 93G1-056.79 là T sản hợp pháp của chị Nguyễn Phương U, ngày 05/6/2022 cơ quan điều tra đã trả lại cho chị U nên Hội đồng xét xử không xử lý lại.

Đối với 01 áo khoác jean màu xám của bị cáo H, bị cáo không có yêu cầu nhận lại nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 đoản phá khóa bị cáo H sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, cơ quan điều tra đã tổ chức truy tìm nhưng không tìm được, nên không đề cập xử lý.

[8] Về án phí: các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 106, Điều 260, Điều 329, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban thường vụ Quốc hội về mức Th, miễn, giảm, Th, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. TU bố bị cáo Nguyễn Xuân H, Võ Tấn T phạm tội “Trộm cắp tài sản” 2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân H 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 31/5/2022.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Võ Tấn T 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 02/6/2022.

Quyết định tạm giam các bị cáo H, T để đảm bảo thi hành án.

3. Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo Nguyễn Xuân H, Võ Tấn T mỗi bị cáo phải nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng).

4. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 áo khoác jean màu xám.

(Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, T sản số 0008770 ngày 17/8/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Gia Mập).

5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo H, T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

6. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ tuyên án.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 43/2022/HS-ST

Số hiệu:43/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Gia Mập - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về