TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
BẢN ÁN 42/2024/HS-ST NGÀY 07/03/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 07 tháng 3 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 23/2024/HSST ngày 23 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2024/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 02 năm 2024, đối với các bị cáo:
Nguyễn Ngọc S, sinh năm 1979 tại tỉnh Nghệ An; Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở trước khi bị bắt số…… đường N, phường Thắng Nhất, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Cha: Nguyễn Văn N; Mẹ: Nguyễn Thị T; Vợ: Nguyễn Thị N; Có 02 người con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2012.
Tiền án:
- Năm 2018, bị Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 148/2018/HSST ngày 27/8/2018. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/4/2019.
- Năm 2020, bị Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 106/2020/HSST ngày 28/5/2020. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/02/2021.
- Năm 2021, bị Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 311/2021/HSST ngày 24/11/2021. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/7/2023.
Tiền sự: Không Nhân thân:
- Năm 2013 bị Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo theo Bản án số 184/2013/HSST ngày 06/9/2013.
- Năm 2012 bị Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ra Quyết định xử phạt hành chính số 56/QĐ-XPHC ngày 20/3/2021 đối với Nguyễn Ngọc S về hành vi “Trộm cắp tài sản” với số tiền phạt 2.000.000 đồng - Năm 2016 bị Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 112/2018/QĐ-TA ngày 27/5/2016, với thời gian chấp hành 24 tháng kể từ ngày 29/3/2016. Đến ngày 29/01/2018 chấp hành xong.
Bị bắt ngày 26/10/2023, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Vũng Tàu. Có mặt.
Bị hại: Chị Nguyễn Thị TN, sinh năm 1986; Địa chỉ: số….. đường N, Phường 9, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Dương Văn P, sinh năm 1995; Địa chỉ: …. Đường N, Phường 10, thành phố Vũng Tàu
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ ngày 23/10/2023, Nguyễn Ngọc S đi bộ một mình trên đường Lương Thế Vinh, Phường 9, thành phố Vũng Tàu phát hiện có 01 xe gắn máy hiệu Honda Click, màu đỏ đen, biển kiểm soát: 72C2-213.xx của chị Nguyễn Thị TN đang dựng trước cổng nhà địa chỉ …. Đường N, Phường 9, thành phố Vũng Tàu không có người trông giữ và có chìa khóa cắm sẵn trên xe. Thấy vậy, S lén lút mở khóa rồi điều khiển xe trên đến quán nước tại địa chỉ 636 đường 30/4, Phường 10, thành phố Vũng Tàu gặp Dương Văn P để trả nợ. Tại đây, S nói đang cần tiền nên nhờ P cầm cố chiếc xe Honda Click, màu đỏ đen, biển kiểm soát: 72C2-213.xx và nói xe gắn máy thuộc sở hữu của S. Phú đồng ý cầm với số tiền 800.000 đồng. Số tiền này S dùng mua ma túy đá sử dụng và tiêu xài cá nhân.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 165/KL-HĐĐG-TTHS ngày 16/11/2023 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự thành phố Vũng Tàu kết luận: 01 xe gắn máy hiệu Honda Click, màu đỏ đen, biển kiểm soát: 72C2- 213.xx, số khung: 1801AY763810; số máy: JF18E0215402 có giá trị 7.500.000 đồng (Bảy triệu, năm trăm ngàn đồng).
Ngoài ra, S tự nguyện khai nhận: Khoảng cuối tháng 9/2023, S lén lút lấy trộm 01 chiếc xe gắn máy kiểu dáng Wave (do Trung Quốc sản xuất) màu đen, không nhớ biển số, đã cũ dựng tại trước cửa tiệm ve chai, địa chỉ: 400 Nguyễn An Ninh, Phường 8, thành phố Vũng Tàu. Sau khi trộm được chiếc xe gắn máy nói trên, S chạy xe đi bán cho một người đàn ông đi đường trong hẻm 442 Bình Giã, phường Nguyễn An Ninh, thành phố Vũng Tàu được số tiền 650.000 đồng. S dùng số tiền trên để tiêu xài cá nhân và mua ma túy sử dụng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP Vũng Tàu đã tiến hành xác minh chiếc xe trên tại địa chỉ 400 Nguyễn An Ninh, Phường 8, thành phố Vũng Tàu nhưng không có trường hợp nào báo bị mất chiếc xe có đặc điểm nêu trên.
Quá trình làm việc tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Ngọc S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình (Bút lục điều tra từ số 24-38).
Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng:
* Cơ quan chức năng thu giữ vật chứng gồm: 01 xe gắn máy hiệu Honda Click, màu đỏ đen, biển kiểm soát: 72C2-213.xx, số khung: 1801AY763810; số máy: JF18E0215402; 01 đĩa VCD; 01 áo thun trắng và 01 nón màu đen.
* Xử lý vật chứng: qua xác minh 01 xe gắn máy hiệu Honda Click, màu đỏ đen, biển kiểm soát: 72C2-213.xx, số khung: 1801AY763810; số máy: JF18E0215402 do chị Nguyễn Thị TN là chủ sở hữu. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP Vũng Tàu ra quyết định giao trả xe gắn máy trên cho Nguyên. Chị TN đã nhận lại tài sản và không có ý kiến gì thêm.
* Số vật chứng còn lại đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP Vũng Tàu chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý, chờ xử lý.
Tại Cáo trạng số 29/CT-VKSVT ngày 22/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc S về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:
- Về trách nhiệm hình sự: Đề nghị tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
+ Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc S từ 3 năm đến 3 năm 6 tháng tù.
- Về trách nhiệm dân sự: Không yêu cầu nên không xem xét - Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) áo thun trắng và 01 nón màu đen; Lưu hồ sơ vụ án 01 đĩa VCD.
Bị cáo thành khẩn khai báo, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. Bị cáo không có tranh luận với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong vụ án này đều hợp pháp.
Về sự vắng mặt của bị hại: Bị hại vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đầy đủ lời khai tại cơ quan điều tra. Bị cáo, đại diện Viện kiểm sát thành phố Vũng Tàu tham gia phiên tòa không yêu cầu hoãn phiên tòa nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị hại Nguyễn Thị TN theo quy định tại Điều 292 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
[2] Về tội danh và điều luật áp dụng:
Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của các bị cáo phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đủ căn cứ để kết luận:
Khoảng 17 giờ 00 ngày 23/10/2023, tại số 11 Nguyễn Đức Thuận, Phường 9, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Nguyễn Ngọc S đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 xe gắn máy hiệu Honda Click, màu đỏ đen, biển kiểm soát: 72C2-213.xx trị giá 7.500.000 đồng của chị Nguyễn Thị TN.
Đối với Dương Văn P, do không biết chiếc xe gắn máy hiệu Honda Click, màu đỏ đen, biển kiểm soát: 72C2-213.xx do S trộm cắp nên không có căn cứ xử lý về hành vi “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại Điều 323 Bộ luật hình sự.
Đối với vụ trộm cắp chiếc xe gắn máy hiệu Wave màu đen, xảy ra tại địa chỉ 400 Nguyễn An Ninh, Phường 8, thành phố Vũng Tàu do Nguyễn Ngọc S tự khai nhận. Do chưa xác định được bị hại, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vũng Tàu đã ra thông báo trên phương tiện truyền thông để xác định bị hại, khi có căn cứ sẽ xử lý Nguyễn Ngọc S theo quy định của pháp luật.
Hành vi nêu trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự đúng như truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu.
[3] Tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Khi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm Hình sự, nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo cần xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật, nhằm giáo dục cải tạo riêng đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[6]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) áo thun trắng và 01 nón màu đen;
Lưu hồ sơ vụ án 01 đĩa VCD ghi hình lại hành vi trộm cắp của S.
[7] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Ngọc S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
1. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc S 3 (Ba) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 26/10/2023.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự;
Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) áo thun trắng và 01 nón màu đen; Lưu hồ sơ vụ án 01 đĩa VCD ghi hình lại hành vi trộm cắp của S.
Vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Vũng Tàu đang bảo quản theo Biên bản giao nhận vật chứng số 100/BB-CCTHADS ngày 23/01/2024.
3. Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 bị cáo Nguyễn Ngọc S phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng).
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án (đối với người có mặt tại phiên tòa);
tính từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết công khai (đối với người vắng mặt tại phiên tòa) để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 42/2024/HS-ST
Số hiệu: | 42/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về