Bản án về tội trộm cắp tài sản số 42/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 42/2023/HS-PT NGÀY 31/03/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 35/2023/TLPT-HS ngày 27 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo Phạm Phương N do có kháng cáo của bị cáo Phạm Phương N đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 02/2023/HS-ST ngày 05 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã A, tỉnh Bình Định.

- Bị cáo có kháng cáo:

Phạm Phương N, sinh năm: 1994 tại tỉnh Bình Định; Nơi ĐKNKTT: Thôn B, xã C, thị xã A, tỉnh Bình Định; Nghề nghiệp: Chạm gỗ; Trình độ học vấn: 08/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phạm Văn O, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị Hồng E, sinh năm 1963; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại; Có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra còn có 02 bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ sáng ngày 19/3/2022, Đỗ Thanh T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Sirius (đã tháo biển kiểm soát 77F1-282.75 cất ở nhà) của em trai Đỗ Thanh D, sinh năm 1997, HKTT thôn B, xã C, thị xã A, tỉnh Bình Định đến nhà Phạm Văn Q ở thôn Đ, xã Ê, thị xã A chở Q đến quán cà phê gần cầu Phụ Ngọc thuộc xã Ê để uống cà phê và sử dụng Cỏ Mỹ (một dạng ma túy). Tại đây, sau khi sử dụng Cỏ Mỹ xong, Q rủ T cùng nhau đi đến các tiệm tạp hóa giả vờ mua bia, lợi dụng sơ hở của người bán, nhanh chóng chở bia chạy thoát rồi đem đến nơi khác bán lấy tiền tiêu xài. T đồng ý và điều khiển xe mô tô nói trên chở Q theo đường ĐT631 hướng từ xã Ê đến phường Z, thị xã A để dạo tìm. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, khi đến tiệm tạp hóa Mạnh Liên, do ông Bùi M, sinh năm 1973, ở đường Cần Vương, thuộc tổ 3, khu vực Kim Châu, phường Z, thị xã A làm chủ, T dừng xe trước tiệm, ngồi trên xe nổ máy đợi sẵn để Q vào gặp bà Bùi Thị Thái Th, sinh năm 1978 (vợ ông M) hỏi mua 03 (ba) thùng bia loại kia Heiniken Silver 330ml (mỗi thùng 24 lon) và tự bê 03 thùng bia đặt lên yên sau xe máy do T điền khiển, đồng thời yêu cầu bà Th lấy cho Q bịch đá lạnh. Khi bà Th vào trong nhà lấy đá thì Q nhanh chóng lên xe của T, T chở Q cùng 03 thùng bia bỏ chạy về hướng xã Ê sang xã C. Khi đến tiệm tạp hóa của bà Phạm Thị Thu Ng, sinh năm 1969, ở thôn V, xã C thì T dừng xe, để Q đem 03 thùng bia nói trên bán lại cho bà Ng với số tiền 1.200.000 đồng. Số tiền này được Q, T sử dụng để ăn nhậu, hút cỏ Mỹ và tiêu xài cá nhân.

Bản Kết luận định giá tài sản số 07/KL-HĐĐGTS ngày 26/4/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã A kết luận: 03 (ba) thùng bia Heiniken Silver 330ml (loại 1 thùng 24 lon) tại thời điểm bị xâm phạm có giá trị 1.290.000 đồng.

Ngoài ra, quá trình điều tra, T, Q và Phạm Phương N còn khai nhận đã cùng nhau thực hiện các hành vi chiếm đoạt tài sản khác trên địa bàn thị xã A từ ngày 13/3/2022 đến ngày 29/5/2022, cụ thể như sau:

- Vụ thứ nhất: Khoảng 12 giờ ngày 13/3/2022, Đỗ Thanh T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu VECSTAR BKS 77S5-1454 của ông Đỗ Châu S, sinh năm 1971 (cha của T) chở Phạm Văn Q đi từ nhà Phạm Hữu S, sinh năm 1985, HKTT xã C, thị xã A đến Trạm bơm nước thuộc thôn Ê với mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác. Đến nơi, T quay xe, đứng nổ máy đợi sẵn bên ngoài, Q vào trong trạm bơm gặp ông Cao Tiến P, sinh năm 1970, HKTT Tổ 3, KV. 5, P. X, TP Ơ, hiện đang ở tại thôn V, xã C, thị xã A mượn điện thoại để gọi. Ông P đưa điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A20S màu đen cho Q. Q cầm điện thoại giả vờ vừa nói chuyện vừa đi ra ngoài trạm bơm rồi lên xe do T đợi sẵn, T tăng ga tẩu thoát. Cả hai quay lại nhà S nhờ S đem chiếc điện thoại vừa chiếm đoạt được đến tiệm điện thoại I ở khu vực Cẩm Văn, phường Nhơn Hưng, thị xã A cầm cố cho anh Đoàn Ngọc Ơ, sinh năm 1974, HKTT số 37 Trường Chinh, phường Nhơn Hưng, thị xã A với số tiền 800.000 đồng. Đến ngày 15/3/2022, Q, T nhờ S quay lại tiệm điện thoại I bán chiếc điện thoại nói trên, được trả thêm số tiền 400.000 đồng rồi dùng số tiền này tiêu xài cá nhân.

- Vụ thứ hai: Vào khoảng 20 giờ 30 phút sáng ngày 14/3/2022, khi đang ở nhà Phạm Hữu S, Q rủ T đi tìm tiệm tạp hóa giả vờ mua bia để chiếm đoạt bán lấy tiền tiêu xài thì T đồng ý. T điều khiển xe mô tô BKS 77S5-1454 chở Q đến tiệm tạp hóa của ông Trần Thanh F, sinh năm 1959, HKTT 199 Ngô Văn Sở, phường Đập Đá, thị xã A. T dừng xe trước tiệm, Q đi bộ vào trong gặp bà Phan Thị G, sinh năm 1965 (là vợ của ông Trần Thanh F) hỏi mua bia, vừa hỏi Q vừa kéo 02 (hai) thùng bia Heineken Silver đặt xuống đất. Bà G thấy nghi ngờ nên nói không bán thì Q nhanh chóng bê 02 thùng bia nói trên chạy ra ngoài đặt lên xe, T điều khiển xe chở Q và 02 thùng bia tẩu thoát. Trên đường đi, Q đánh rơi mất 01 thùng bia, chỉ còn lại 01 thùng. Cả hai đem đến tiệm tạp hóa của bà Phạm Thị Thu Ng, sinh năm 1969, HKTT thôn V, xã C, thị xã A bán lại thùng bia này với số tiền 380.000 đồng rồi dùng số tiền này tiêu xài cá nhân.

- Vụ thứ ba: Vào đêm ngày 15/3/2022, sau khi nhậu tại nhà Phạm Hữu S, Q nảy sinh ý định tháo trộm bình ắc Q của chiếc xe tải đậu gần Khu Q hoạch dân cư V 4 nên đã lấy 01 cái tua vít và 01 cái cờ lê tại nhà S cất vào túi. Khi rời khỏi nhà S, Q rủ T cùng đi tháo trộm bình ắc Q thì T đồng ý và điều khiển xe mô tô BKS 77S5-1454 chở Q. Khi đến lô đất trống gần Khu QHDC V 4, xã C (đối diện nhà số 152 Ngô Văn Sở, phường Đập Đá), cả hai phát hiện xe ô tô tải BKS 77C-149.45 của anh Trần Văn R, sinh năm 1975, HKTT 146 Ngô Văn Sở, phường Đập Đá, thị xã A đang đậu tại đây, không có người trông coi. Q lấy tuốc nơ vít và cờ lê đưa cho T để tháo bình ắc quy nhưng T không tháo được. Q đi bộ đến cơ sở mua bán phế liệu ở cách đó khoảng 50 mét lấy 01 cây kéo cắt sắt quay lại đưa cho T cắt dây nối để tháo bình. Sau khi tháo được 02 bình ắc quy loại bình nước 12V-100Ah, màu trắng, nhãn hiệu Đồng Nai của xe này, T chở Q và 02 bình ắc quy tẩu thoát. Đến sáng ngày 16/3/2022, cả hai đem 02 bình ắc quy nói trên đến Cơ sở mua bán phế liệu H ở địa chỉ 469 Trường Chinh, thuộc khu vực An Ngãi, phường Nhơn Hưng, thị xã A bán cho bà Nguyễn Thị Mỹ Â (chủ cơ sở) với giá 900.000 đồng rồi dùng số tiền này tiêu xài chung.

- Vụ thứ tư: Vào khoảng 07 giờ 30 phút ngày 10/4/2022, Phạm Văn Q và Đỗ Thanh T đi bộ từ nhà T ở thôn Quan Quang, xã Ê đến xã C, thị xã A chơi. Khi đi qua lán tạm của anh Lê Công Ch, sinh năm 1986, ở xóm 4, thôn Quan Quang, xã Ê dựng để ở lúc xây nhà mới thì Q phát hiện trong lán có 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu OPPO F9 màu đỏ đang sạc pin. Q chỉ cho T thấy chiếc điện thoại đang sạc rồi T đi trước, còn Q quan sát không thấy ai xung quanh nên đã đi vào lán, rút chiếc điện thoại ra khỏi dây sạc và đi đến chỗ T, đưa chiếc điện thoại cho T. T tắt nguồn rồi cả hai đem đến tiệm điện thoại I ở khu vực Cẩm Văn, phường Nhơn Hưng bán chiếc điện thoại này cho anh Đoàn Ngọc Ơ được 400.000 đồng rồi dùng số tiền này tiêu xài chung.

- Vụ thứ năm: Vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 29/5/2022, sau khi ăn nhậu cùng với Phạm Phương N, Nguyễn Thành L (tên thường gọi là Đùm), sinh năm 1995, HKTT thôn Vân Sơn, xã C, thị xã A tại nhà Phạm Hữu S, Phạm Văn Q rủ N đi tìm tài sản để chiếm đoạt bán lấy tiền tiêu xài thì N đồng ý. Q tự ý lấy xe mô tô hiệu Sirius, màu xám của L (không xác định được biển kiểm soát) chở N đi dạo tìm tài sản để chiếm đoạt. Khi đến tiệm điện nước Y của chị Cao Thị Tuyết Y, sinh năm 1992, HKTT xã Nhơn Mỹ, thị xã A, Q nảy sinh ý định giả vờ mua nồi cơm điện để chiếm đoạt nên dừng xe ngoài đường rồi vào gặp chị Y hỏi mua 01 nồi cơm điện. Khi chị Y lấy nồi cơm điện thì Q phát hiện 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Samsung A30 đang sạc pin nên nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại này, Q nói với chị Y không lấy nồi cơm điện nữa mà hỏi mua cái quạt được treo trên cao nhằm mục đích để chị Y đi lấy, không quan sát thấy chiếc điện thoại. Lúc này, Q nhanh chóng lấy điện thoại giấu vào túi quần rồi nói không mua nữa và rời đi. Khi Q ra đến xe mô tô và nổ máy thì chị Y phát hiện mất điện thoại nên tri hô, nhưng Q nhanh chóng điều khiển xe chở N tẩu thoát rồi chạy thẳng đến tiệm điện thoại I ở khu vực Cẩm Văn, phường Nhơn Hưng, thị xã A cầm cố với giá tiền 800.000 đồng rồi dùng số tiền này tiêu xài cá nhân.

Bản Kết luận định giá tài sản số 28/KL-HĐĐGTS ngày 05/9/2022, Hội đồng Định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã A kết luận:

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung A20S màu đen, đã qua sử dụng tại thời điểm bị xâm phạm trị giá 2.250.000 đồng (hai triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng).

- 02 (hai) thùng bia hiệu Heineken Silver 330ml, mỗi thùng 24 lon tại thời điểm bị xâm phạm trị giá 880.000 đồng (tám trăm tám mươi nghìn đồng).

- 02 (hai) bình ắc Q ô tô nhãn hiệu Đồng Nai, loại 12V-100Ah, bình nước, màu trắng (đã qua sử dụng) tại thời điểm bị xâm phạm trị giá 2.200.000 đồng (hai triệu hai trăm nghìn đồng).

- 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO F9 màu đỏ tại thời điểm bị xâm phạm trị giá 1.800.000 đồng (một triệu tám trăm nghìn đồng).

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung A30 màu xanh dương, đã qua sử dụng tại thời điểm bị xâm phạm trị giá 2.500.000 đồng.

* Về trách nhiệm dân sự:

- Các bị hại bà Bùi Thị Thái Th, ông Cao Tiến P, bà Phan Thị Ng, ông Trần Văn R, anh Lê Công Ch, chị Cao Thị Tuyết Y đã nhận tiền bồi thường, không yêu cầu gì khác nên không xem xét.

- Bà Đào Thị Bích Ư (mẹ của bị can T) tự nguyện lấy tiền của cá nhân bồi thường cho các bị hại, không có yêu cầu T trả lại nên không xem xét.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2023/HS-ST ngày 05 tháng 01 năm 2023, Tòa án nhân dân thị xã A, tỉnh Bình Định đã Quyết định: Tuyên bố các bị cáo Phạm Văn Q, Đỗ Thanh T phạm tội “Cướp giật tài sản”; các bị cáo Phạm Văn Q, Đỗ Thanh T, Phạm Phương N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 54 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Phương N 03 (ba) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử phạt bị cáo Phạm Văn Q 02 (hai) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 03 (ba) năm tù. Xử phạt bị cáo Đỗ Thanh T 18 (mười tám) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 24 (hai mươi bốn) tháng tù, Quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, về án phí và Qền kháng cáo của những người tham gia tố tụng.

Ngày 17/01/2023 bị cáo Phạm Phương N đơn kháng cáo xin hưởng án treo. Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Phương N giữ nguyên kháng cáo xin hưởng án treo.

Tại phiên toà đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm đ khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Phương N. Sửa bản án sơ thẩm. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 54; Điều 36 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Phương N 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phạm Phương N khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để xác định: Trong khoảng thời gian từ ngày 13/3/2022 đến ngày 29/5/2022 Phạm Văn Q cùng Đỗ Thanh T sử dụng xe mô tô đi dạo tìm xem chủ sở hữu tài sản sơ hở thì tiếp cận chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng lên xe tẩu thoát. Trong đó Q và T đã thực hiện ba vụ cướp giật tài sản gồm 05 thùng bia heniken và 01 điện thoại di động samsung galaxy A20S trị giá 4.420.000 đồng và thực hiện hai vụ trộm cắp tài sản gồm 02 bình ắc Q ô tô nhãn hiệu Đồng Nai và 01 điện thoại di động oppo F9 trị giá 4.000.000 đồng. Ngoài ra Q và Phạm Phương N lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động Samsung A30 của chị Cao Thị Tuyết Hạnh trị giá 2.500.000 đồng. Do đó, Tòa án nhân dân thị xã A xét xử bị cáo Phạm Văn Q, Đỗ Thanh T về tội “Cướp giật tài sản” Q định tại khoản 1 Điều 171 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo Phạm Văn Q, Đỗ Thanh T, Phạm Phương N bị xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” Q định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Phạm Phương N xin được hưởng án treo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, mức độ và hậu quả của vụ án và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Q định tại các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Và áp dụng thêm Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo 03 tháng tù, dưới mức khởi điểm của khung hình phạt là có sự cân nhắc.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm chứng cứ nào khác để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Phạm Phương N.

[3] Về án phí HSPT: Theo Q định tại điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khóa 14 Q định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Phạm Phương N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các phần Quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm là không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khóa 14 Q định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Phương N, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

2. Xử phạt bị cáo Phạm Phương N 03 (Ba) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn được tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

3. Về án phí: Bị cáo Phạm Phương N phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các phần Quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 42/2023/HS-PT

Số hiệu:42/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về