Bản án về tội trộm cắp tài sản số 416/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 416/2023/HS-PT NGÀY 27/06/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 6 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 162/2023/TLPT-HS ngày 20 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Thị M. Do có kháng cáo của bị cáo và bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2023/HS-ST ngày 12-01-2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu.

- Bị cáo kháng cáo:

Họ và tên: NGUYỄN THỊ M, sinh ngày 29/9/1989; tại huyện Vĩnh L, tỉnh Bạc Liêu;

Nơi cư trú: Số 02/187, ấp Kim C, xã Vĩnh T, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H (chết) và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1949; bị cáo có chồng tên Nguyễn Thanh T1, sinh năm 1987 và có 04 người con (lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2018) Tiền án, tiền sự: Chưa có; Bị cáo tại ngoại (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Phạm Kim A, Văn phòng luật sư Kim Anh thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

- Bị hại: Nguyễn Thị T2, sinh năm 1974; Địa chỉ: ấp Kim C, xã Vĩnh T, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu (có mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị M là em dâu của Nguyễn Thị T2, cả hai sống cùng gia đình tại nhà số 02/187, ấp Kim C, xã Vĩnh T, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu. Quá trình sinh sống chung nhà, những lần M lấy quần áo đem vào phòng cất giùm T2 thì phát hiện T2 cất giữ vàng tại sào quần áo trong phòng ngủ của T2, vàng được để trong cái túi màu đỏ (trên túi có in chữ "Kim Tín"), túi đựng vàng được để trong cái bóp da có quai đeo, bóp da để trong cái ống quần được móc treo cùng với cái áo khoác tại sào quần áo, nên M nảy sinh ý định lấy trộm đem đi bán để lấy tiền tiêu xài. Từ đó, từ ngày 05/5/2022 đến ng ày 20/5/2022, M đã 02 lần lấy trộm vàng của bà T2, cụ thể:

- Lần thứ nhất: Khoảng 13 giờ ngày 05/5/2022, lợi dụng lúc nhà ít người chỉ có M cùng với người con nhỏ, Nguyễn Văn Mừng (cha chồng M) đang nằm ngủ trên võng ở nhà sau; M đi vào phòng ngủ của T2, đến sào quần áo lấy trộm 03 (ba) miếng vàng SJC (loại vàng miếng). Sau khi lấy trộm, M cất giấu 03 miếng vàng SJC vào cái túi màu đỏ có in chữ "Kim Tín" rồi bỏ vào túi áo của M. Khoảng 30 phút sau, M điều khiển xe đến nhà Nguyễn Thị Bưởi (chị ruột M) tại ấp Sóc Đồn, xã Hưng Hội, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu gửi 03 miếng vàng nêu trên cho Bưởi. Khi gửi M nói với Bưởi đây là số vàng của M dành dụm có được, nhờ giữ giùm, xong M điều khiển xe chạy về nhà.

- Lần thứ hai: Khoảng 14 giờ ngày 20/5/2022, lợi dụng lúc T2 cùng những người trong nhà đi ra ngoài chỉ có M cùng với người con nhỏ, Nguyễn Văn Mừng (cha chồng M) đang nằm ngủ trên võng ở nhà sau; M đi vào phòng ngủ của T2 đến sào quần áo lấy trộm 01 (một) miếng vàng SJC; 01 (một) lắc tay vàng, kiểu khoen lật loại vàng 23k và 03 (ba) chiếc nhẫn vàng, kiểu nhẫn trơn loại loại vàng 24k. Sau khi lấy trộm, M cất giấu số vàng lấy trộm vào túi áo của M. Sau đó, M lấy 02 (hai) chiếc nhẫn vàng kiểu nhẫn trơn quấn vào một miếng vải cất giấu vào chân sào quần áo trong phòng ngủ của M, số vàng còn lại gồm 01 (một) miếng vàng SJC, 01 (một) lắc tay vàng kiểu khoen lật; 01 (một) chiếc nhẫn vàng, M để vào một cái hủ bằng nhựa, bỏ vào cái bọc nilong màu đen rồi đem ra khu vực đất trống gần ao tôm phía sau nhà chôn giấu.

Đến ngày 29/5/2022, Nguyễn Thị T2 phát hiện số vàng của mình bị mất trộm nên trình báo Công an xã Vĩnh Trạch, thành phố Bạc Liêu. Sau khi được mời làm việc, M đã khai nhận toàn bộ hành vi lấy trộm số vàng của bà T2 và khai ra nơi cất giấu để giao nộp cho Cơ quan điều tra tạm giữ.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 87/KL-HĐĐGTS, ngày 26/9/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Bạc Liêu kết luận:

- 03 miếng kim loại vàng SJC, số lượng 29,9985 chỉ. Tính đến ngày 05/5/2022 có giá trị thành tiền là: 210.589.470 đồng.

- 01 miếng kim loại vàng SJC, số lượng 9,9995 chỉ. Tính đến ngày 20/5/2022 có giá trị thành tiền là: 69.396.530 đồng.

- 03 nhẫn vàng 24K, số lượng 24,999 chỉ. Tính đến ngày 20/5/2022 có giá trị thành tiền là: 137.244.510 đồng.

- 01 lắc tay vàng 23K, số lượng 20,003 chỉ. Tính đến ngày 20/5/2022 có giá trị thành tiền là: 109.816.410 đồng (trong đó tiền gia công 400.000 đồng) .

Tổng giá trị thành tiền là 526.646.920 đồng.

Cáo trạng số 46/CT-VKS-P1 ngày 24 tháng 11 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu truy tố bị cáo Nguyễn Thị M, về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2023/HS-ST ngày 12-01-2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu quyết định:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị M, phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173, điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị M 08 (tám) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính kể từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Cùng ngày 18/01/2023, bị cáo Nguyễn Thị M và bị hại Nguyễn Thị T2 cùng có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Nguyễn Thị M thừa nhận hành vi phạm tội, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt với lý do bị cáo phạm tội lần đầu; thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải; đã trả lại toàn bộ tài sản chiếm đoạt; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; cha mẹ bị cáo là người có công với cách mạng được tặng thưởng Huân chương kháng chiến; hoàn cảnh gia đình khó khăn, phải nuôi 04 con nhỏ.

Người bào chữa cho bị cáo là Luật sư Phạm Kim A phát biểu ý kiến: ngoài các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng, bị cáo còn có các tình tiết giảm nhẹ khác như bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, phải nuôi cha chồng 94 tuổi bị tai biến, không đi lại được, nuôi 4 con nhỏ; bị hại tiếp tục có đơn xin giảm hình phạt cho bị cáo; gia đình có công với cách mạng. Ngoài ra, thiệt hại cũng đã được bị cáo khắc phục toàn bộ. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị hại Nguyễn Thị T2 vẫn giữ kháng cáo yêu cầu Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo M do bị cáo đã trả lại toàn bộ tài sản, bị hại không bị thiệt hại gì; bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, phải nuôi cha già và 04 con nhỏ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm: bản án của Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Thị M 08 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo và bị hại kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không khiếu nại hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị M đã thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo như bản án sơ thẩm đã nêu. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với với lời khai của chính bị cáo trong quá trình điều tra, với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, qua đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở để xác định như sau:

[2.1] Bị cáo Nguyễn Thị M đã 02 lần thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản là vàng của bị hại Nguyễn Thị T2 vào các ngày 05/5/2022 và ngày 20/5/2022.

[2.2] Tại Kết luận định giá tài sản số 87/KL-HĐĐGTS ngày 26/9/2022 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự tỉnh Bạc Liêu kết luận: Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt của bị hại là 526.646.920 đồng.

[2.3] Với hành vi nêu trên, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Thị M phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật`.

[3] Xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của bị hại mà còn gây mất trật tự trị an ở địa phương; vì vậy cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Xét kháng cáo của bị cáo và bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[4.1] Khi lượng hình, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo có tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tích cực hợp tác với cơ quan điều tra trong quá trình giải quyết vụ án; bị hại có đơn bãi nại xin giảm án cho bị cáo; cha, mẹ bị cáo là người có công với cách mạng được Nhà nước tặng Huân, Huy chương kháng chiến, quy định tại các điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đồng thời áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo.

[4.2] Tại cấp phúc thẩm, bị cáo vẫn thể hiện thái độ thành khẩn, ăn năn hối cải và xuất trình tình tiết mới là bị cáo có hoàn cảnh gia đình thật sự khó khăn, bị cáo là lao động chính phải nuôi cha già và 04 con còn nhỏ. Ngoài ra, bị hại cũng có đơn kháng cáo tiếp tục xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[4.3] Như vậy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo và bị hại, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm, chấp nhận kháng cáo của bị cáo và bị hại, cũng như đề nghị của người bào chữa, sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo theo hướng phân tích trên. Lập luận này cũng là cơ sở để không chấp nhận đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa.

[6] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[7] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Thị M không phải chịu, theo quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị M và bị hại là bà Nguyễn Thị T2. Sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số 03/2023/HS-ST ngày 12-01-2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Thị M.

Tuyên xử:

[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị M, phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

[2] Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173, điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị M 07 (bảy) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính kể từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

[3] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Thị M không phải chịu.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

52
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 416/2023/HS-PT

Số hiệu:416/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về