Bản án về tội trộm cắp tài sản số 41/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 41/2022/HS-ST NGÀY 10/11/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 11 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 45/2022/TLST-HS ngày 24 tháng 10 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2022/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo:

Huỳnh Chí N, sinh năm 2000 tại tỉnh Cà Mau; nơi ĐKNKTT: Ấp A, xã NP, huyện UM, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Chí T và bà Nguyễn Thị L; anh chị em ruột: 02 người; vợ: Nguyễn Ngọc Thủy T; con: 01 người, sinh năm 2022; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Trần Như N – Trợ giúp viên pháp lý, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Cà Mau. (có mặt)

- Bị hại: Anh Võ Văn V, sinh năm 1998; cư trú tại: Ấp XT, xã TT, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 30/8/2022, bị cáo Huỳnh Chí N điều khiển xe mô tô hiệu Raider, biển kiểm soát số 69H1-X đến quán cà phê PT thuộc ấp TL, xã TT, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau uống cà phê. Trong khi đang uống cà phê, bị cáo phát hiện một chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, biển kiểm soát số 68L1-X của anh Võ Văn V đang đậu trước cửa quán, chìa khóa vẫn còn cấm trên ổ khóa, không người trông coi nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. Bị cáo điều khiển xe mô tô hiệu Raider, biển kiểm soát số 69H1-X về nhà ông H đậu, sau đó quay lại quán cà phê PT, bị cáo quan sát không có người trông coi nên dẫn chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, biển kiểm soát số 68L1-X của anh V ra khỏi khu vực quán rồi nổ máy điều khiển xe đi lên Cà Mau tìm nơi tiêu thụ. Khi đến đầu lộ Đông Tây thì bị lực lượng Cảnh sát giao thông Công an huyện Đầm Dơi tuần tra, yêu cầu dừng xe kiểm tra hành chính nhưng bị cáo không xuất trình Giấy chứng nhận đăng ký và đã bị lập biên bản vi phạm hành chính, tạm giữ phương tiện. Lúc này, bị cáo điện thoại cho anh Huỳnh Chí D chở về nhà ông H.

Sau khi phát hiện xe bị mất, anh Vạn đã trình bào Công an xã TT, đến sáng ngày 31/8/2022, công an xã TT mời bị cáo làm việc và bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Theo bản kết luận định giá tài sản số 22/KL-ĐGTS ngày 08/9/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đầm Dơi kết luận: Một chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, biển kiểm soát số 68L1-X có giá trị 20.000.000đ.

Vật chứng thu giữ: Một chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, biển kiểm soát số 68L1-X đã trả cho anh V và 01 Giấy phép lái xe đã trả cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại.

Từ những tình tiết nêu trên, tại Cáo trạng số 43/CT-VKS ngày 21/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi đã truy tố bị cáo Huỳnh Chí N về tội “trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo như nội dung Cáo trạng đã nêu.

- Người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo phạm tội Trộm cắp tài sản. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 và có đủ điều kiện được hưởng án treo nên rất mong Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng án treo để có điều kiện lo cho con nhỏ. Bị cáo đã bồi thường cho bị hại 2.000.000đ và bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường nên đề nghị không xem xét.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo N phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt: Bị cáo N từ 09 tháng đến 12 tháng tù. Về xử lý vật chứng: Các vật chứng đã trả cho bị hại và bị cáo nên không đặt ra xem xét. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo yêu cầu Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đầm Dơi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về trách nhiệm hình sự:

[2.1] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo N thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi truy tố. Lời thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời trình bày của bị cáo, bị hại, phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: ngày 30/8/2022 tại quán cà phê PT thuộc ấp TL, xã TT, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau, bị cáo đã lén lút chiếm đoạt một chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, biển kiểm soát số 68L1-X có giá trị 20.000.000đ.

Căn cứ khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự quy định:

“Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng ..., thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

Do đó, Cáo trạng số 43/CT-VKS ngày 21/10/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi đã truy tố bị cáo Huỳnh Chí N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2.2] Xét tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Trước, trong và sau khi phạm tội, bị cáo nhận thức được hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật nhưng với bản tính lười lao động, không làm nhưng muốn có ăn nên bị cáo vẫn bất chấp thực hiện. Hành vi của bị cáo không những trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương.

[2.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã bồi thường thiệt hại cho bị hại, có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị hại có đơn xin bãi nại, bị cáo có con còn nhỏ (trên hai tháng tuổi) và thuộc diện hộ cận nghèo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[2.4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Từ những nhận định trên, xét thấy: Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự, có nhân thân tốt và địa chỉ cư trú rõ ràng, đủ điều kiện được hưởng án treo. Do đó, Hội đồng xét xử xét không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, cho bị cáo chấp hành án có điều kiện, cải tạo tại địa phương cũng đủ giáo dục, răn đe đối với bị cáo.

[3] Về xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đầm Dơi đã trả lại cho bị hại và bị cáo là phù hợp quy định của pháp luật.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và bị hại không đặt ra xem xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết là phù hợp.

[5] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật. ‘

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Chí N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Chí N 01 (một) năm tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Huỳnh Chí N cho Ủy ban nhân dân xã NP, huyện UM, tỉnh Cà Mau giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú, thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

“Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.

2. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Huỳnh Chí N phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Võ Văn Vạn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

58
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 41/2022/HS-ST

Số hiệu:41/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:10/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về