Bản án về tội trộm cắp tài sản số 41/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 41/2022/HS-ST NGÀY 25/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 19/2022/TLST-HS ngày 10 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2022/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 5 năm 2022 với bị cáo:

KIỀU VĂN T, sinh ngày 03 tháng 8 năm 1978, tại Tp. Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký thường trú: số 160/18 đường Nguyễn Duy D, Phường A, Quận B, Tp. Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Kiều Văn N (chết) và bà Nguyễn Thị T; có vợ: Tiết Quốc Thiên K và 02 con: lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2014; nhân thân: Ngày 11/9/2014, Công an thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” (Quyết định số 418/QĐ-XPHC ngày 11/9/2014), Ngày 07/01/2015, Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 05/2015/HSST); tiền án: Ngày 22/3/2017 Tòa án nhân dân Quận 7, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 38/2017/HSST), Ngày 28/11/2019 Tòa án nhân dân quận Gò Vấp xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 209/2019/HSST), chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/02/2021, chưa thi hành nghĩa vụ bồi thường dân sự; Tiền sự: không; Bị bắt, tạm giữ, tạm giam: 17/9/2021. (Có mặt)

- Bị hại: Anh Lê Quốc Đ, sinh năm 1992, nơi cư trú: số 842 đường Lạc Long Q, Phường C, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Tiết Quốc Thiên K, sinh năm 1984, nơi cư trú: số 380/112/21 đường Lê Văn L, phường E, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 10 phút ngày 16/9/2021, Kiều Văn T điều khiển xe gắn máy hiệu Honda AirBlade, biển số: 59U2 – 252.30 đi tìm việc làm, trên đường đi T ghé vào tiệm sửa xe tại số 842 đường Lạc Long Q, Phường C, quận D (do anh Lê Quốc Đ làm chủ) để thay nhớt xe. Khi vào, thấy anh Đ đang sửa xe máy cho khách nên T nói anh Đ đưa bình nhớt để T tự thay. Sau khi thay nhớt trả tiền xong, T hỏi anh Đ giá vỏ xe, anh Đ nói T ngồi chờ sẽ báo giá sau. Trong lúc ngồi chờ, Toàn phát hiện chiếc điện thoại di động hiệu Iphone XS max của anh Đ để trên máy in đặt trên bàn gỗ trong tiệm nên nảy sinh ý định lấy trộm để bán lấy tiền tiêu xài. Lợi dụng lúc anh Đ đang sửa xe phía ngoài, T tiến đến bàn lấy trộm điện thoại cất giấu vào túi quần bên hông trái của mình rồi đi ra nói với anh Đ để hôm khác sẽ đến thay vỏ xe. Sau khi lấy trộm điện thoại, T điều khiển xe chạy về hướng đường Lý Thường K và bán điện thoại cho một thanh niên đi đường (không xác định được lai lịch) với giá 2.800.000 đồng. Số tiền bán điện thoại được, T dùng trả tiền phí gửi xe tháng tại chung cư N 250.000 đồng, trả nợ cho T1 (không xác định lai lịch) 650.000 đồng, tiêu xài cá nhân 100.000 đồng, còn 1.800.000 đồng cất giữ trong người.

Đối với anh Lê Quốc Đ, sau khi phát hiện mất tài sản đã trình báo với Công an. Qua truy xét, đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, Công an quận Tân Bình mới T về trụ sở làm việc. Tại Cơ quan Công an và trong quá trình điều tra, Kiều Văn T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.

Vật chứng vụ án:

- 01 USB ghi nhận hình ảnh diễn biến vụ trộm cắp tài sản (lưu kèm hồ sơ vụ án).

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS Max màu Gold 64GB (kết quả định giá trong tố tụng trị giá 10.000.000 đồng), là tài sản bị chiếm đoạt không thu hồi được.

- Thu giữ của Toàn: 01 bộ quần áo, 01 nón bảo hiểm màu đen, 01 đôi giày màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Vsmart màu đen, 01 bóp da màu đen và 1.800.000 đồng (là tiền Toàn bán điện thoại di động trộm cắp của anh Đ sau khi tiêu xài còn lại).

- 01 xe gắn máy hiệu Honda Air Blade BS: 59U2 – 252.30 thu giữ của T. Kết quả xác minh xe do Tiết Quốc Thiên K (vợ của T) đứng tên đăng ký. Chị K cho biết đã cho T mượn xe để đi xin việc làm từ khoảng giữa tháng 7/2021 và không biết việc Toàn sử dụng chiếc xe gắn máy này để làm phương tiện trộm cắp tài sản vào ngày 16/9/2021, phù hợp với lời khai của T. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình đã trả xe gắn máy này cho chị K.

Tại bản cáo trạng số 21/CT-VKS ngày 08 tháng 3 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Kiều Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát đã trình bày luận tội, cụ thể: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa thông qua lời khai của bị cáo, bị hại thì hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS Max màu Gold 64GB, trị giá 10.000.000 đồng của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, lần phạm tội này của bị cáo được xác định là “Tái phạm nguy hiểm”, được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật nhà nước bảo vệ, làm ảnh hưởng tới trật tự, trị an tại địa phương, bị cáo phạm tội do cố ý nên cần xử phạt bị cáo mức án phù hợp để có tác dụng giáo dục răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Từ căn cứ trên đề nghị áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 2 Điều 173 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt bị cáo từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị hại anh Lê Quốc Đ vắng mặt, nhưng căn cứ vào hồ sơ vụ án thì bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 10.000.000 đồng là trị giá chiếc điện thoại bị cáo chiếm đoạt không thu hồi được. Do quá trình điều tra thu hồi được số tiền 1.800.000 đồng nên bị hại yêu cầu được nhận lại số tiền này và yêu cầu bị cáo phải bồi thường tiếp cho bị hại số tiền 8.200.000 đồng. Xét yêu cầu của bị hại là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên giao lại cho bị hại số tiền 1800.000 đồng thu được và buộc bị cáo bồi thường cho bị hại thêm số tiền 8.200.000 đồng.

Về vật chứng vụ án:

- Đối với 01 USB ghi nhận hình ảnh diễn biến vụ trộm cắp tài sản là chứng cứ của vụ án cần được lưu giữ trong hồ sơ vụ án nên đề nghị Hội đồng xét xử giao cho Tòa án nhân dân quận Tân Bình để lưu vào hồ sơ vụ án.

- Đối với 01 áo khoác dài tay màu đen phía sau có chữ ADIDAS, 01 quần tây dài màu đen, 01 nón bảo hiểm màu đen, 01 đôi giày màu đen, 01 bóp da màu đen thu giữ của bị cáo là những vật không có giá trị và bị cáo không có yêu cầu nhận lại nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu và tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Vsmart màu đen là tài sản cá nhân, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo.

- Đối với số tiền 1.800.000 đồng là tiền do bán tài sản phạm tội mà có nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên giao lại cho bị hại để cấn trừ vào số tiền bị cáo phải bồi thường cho bị hại.

- Đối với 01 xe gắn máy hiệu Honda Air Blade BS: 59U2 – 252.30 là phương tiện bị cáo sử dụng trong thời điểm phạm tội. Kết quả xác minh xe do chị Tiết Quốc Thiên K đăng ký sở hữu. Chị K cho biết bị cáo mượn xe để làm phương tiện đi xin việc làm. Việc bị cáo sử dụng phương tiện tại thời điểm phạm tội chị K không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình đã xử lý trả xe cho chị K. Hiện không có ai thắc mắc, khiếu nại gì nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét lại.

Sau phần luận tội của Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận, tranh tụng với Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh của bị cáo để chiếu cố giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nhằm giúp cho bị cáo sửa chữa lỗi lầm của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo theo các tài liệu, chứng cứ được Công an quận Tân Bình lập, thì việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình ra quyết định tạm giữ, khởi tố vụ án, khởi tố bị can ra quyết định tạm giam để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với bị cáo Kiều Văn T về hành vi trộm cắp tài sản quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 là có cơ sở, đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, thẩm tra các tài liệu, chứng cứ, luận tội, tranh tụng; nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa thông qua việc thẩm tra các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo, bị hại thì hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS Max màu Gold 64GB, trị giá 10.000.000 đồng của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, lần phạm tội này của bị cáo được xác định là “Tái phạm nguy hiểm”, được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Đồng thời qua phần phân tích, đánh giá, nhận định của đại diện Viện kiểm sát trong phần luận tội, nhận thấy những căn cứ Viện kiểm sát viện dẫn làm cơ sở chứng minh hành vi phạm tội để đề nghị truy tố, xử phạt bị cáo như đã nêu trên là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Xét do muốn có tiền phục vụ nhu cầu cá nhân mà bị cáo đã cố ý phạm tội, vì vậy cần xử phạt bị cáo mức án phù hợp để có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên cần giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Việc đại diện viện kiểm sát căn cứ tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân bị cáo để đề nghị áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 2 Điều 173 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa, bị hại anh Lê Quốc Đ vắng mặt, nhưng căn cứ vào hồ sơ vụ án thì bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 10.000.000 đồng là trị giá chiếc điện thoại bị cáo chiếm đoạt không thu hồi được. Do quá trình điều tra thu hồi được số tiền 1.800.000 nên bị hại yêu cầu được nhận lại số tiền này và yêu cầu bị cáo phải bồi thường tiếp cho bị hại số tiền 8.200.000 đồng. Xét yêu cầu của bị hại là có căn cứ nên Hội đồng xét xử thống nhất giao lại cho bị hại số tiền 1800.000 đồng để trừ vào số tiền bị cáo phải bồi thường cho bị hại, đồng thời buộc bị cáo bồi thường cho bị hại thêm số tiền 8.200.000 đồng như đề nghị của Viện kiểm sát.

[5] Về vật chứng vụ án:

- Đối với 01 USB ghi nhận hình ảnh diễn biến vụ trộm cắp tài sản là chứng cứ cần được lưu giữ trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử giao cho Tòa án nhân dân quận Tân Bình để lưu vào hồ sơ vụ án như đề nghị của Viện kiểm sát.

- Đối với 1 áo khoác dài tay màu đen phía sau có chữ ADIDAS, 01 quần tây dài màu đen, 01 nón bảo hiểm màu đen, 01 đôi giày màu đen, 01 bóp da màu đen thu giữ của bị cáo là những vật không có giá trị và bị cáo không có yêu cầu nhận lại nên Hội đồng xét xử tịch thu và tiêu hủy như đề nghị của Viện kiểm sát.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Vsmart màu đen là tài sản cá nhân, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo như đề nghị của Viện kiểm sát.

- Đối với số tiền 1.800.000 đồng là tiền do bị cáo bán tài sản phạm tội mà có nên Hội đồng xét xử tuyên giao lại cho bị hại để cấn trừ vào số tiền bị cáo phải bồi thường cho bị hại như đề nghị của Viện kiểm sát.

- Đối với 01 xe gắn máy hiệu Honda Air Blade BS: 59U2 – 252.30 là phương tiện bị cáo sử dụng trong thời điểm phạm tội. Kết quả xác minh xe do chị Tiết Quốc Thiên K đăng ký sở hữu. Chị K cho biết bị cáo mượn xe để đi xin việc làm phương tiện đi xin việc làm. Việc bị cáo sử dụng phương tiện tại thời điểm phạm tội chị Kim không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình đã xử lý trả xe cho chị K. Hiện không có ai thắc mắc, khiếu nại gì nên Hội đồng xét xử không xem xét lại như đề nghị của Viện kiểm sát.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 106, Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Luật phí, lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo KIỀU VĂN T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt: KIỀU VĂN T 03 (ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Thời hạn tù tính từ ngày 17/9/2021.

[2] Về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo bồi thường cho anh Lê Quốc Đ số tiền 8.200.000 (tám triệu hai trăm ngàn) đồng.

Kể từ ngày anh Lê Quốc Đ có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong, bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

[3] Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu giao cho Tòa án nhân dân quận Tân Bình lưu vào hồ sơ vụ án 01 USB ghi nhận hình ảnh diễn biến vụ trộm cắp tài sản - Giao trả cho anh Lê Quốc Đ số tiền 1.800.000 (một triệu tám trăm ngàn) đồng (Tình trạng vật chứng theo như Biên bản giao nhận vật chứng số 47/BB/2022 ngày 30/3/2022 giữa Cơ quan thi hành án hình sự Công an quận Tân Bình và Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình).

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Vsmart màu đen (Giao cho Chi cục thi hành án quận Tân Bình tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án dân sự). Tình trạng vật chứng theo như Biên bản giao nhận vật chứng số 47/BB/2022 ngày 30/3/2022 giữa Cơ quan thi hành án hình sự Công an quận Tân Bình và Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình.

- Tịch thu và tiêu hủy: 01 áo khoác dài tay màu đen phía sau có chữ ADIDAS, 01 quần tây dài màu đen, 01 nón bảo hiểm màu đen, 01 đôi giày màu đen và 01 bóp da màu đen (Tình trạng vật chứng theo như Biên bản giao nhận vật chứng số 47/BB/2022 ngày 30/3/2022 giữa Cơ quan thi hành án hình sự Công an quận Tân Bình và Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình).

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm và 410.000 (bốn trăm mười ngàn) đồng án phí Dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sư có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014); Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Hội đồng xét xử đã giải thích về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án cho đương sự theo quy định tại Điều 26 Luật Thi hành án (đã sửa đổi, bổ sunlg năm 2014).

[5] Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

134
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 41/2022/HS-ST

Số hiệu:41/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về