TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI XUÂN, TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 39/2023/HS-ST NGÀY 22/11/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 22 tháng 11 năm 2023, Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 38/2023/TLST - HS ngày 01 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2023/QĐXXST - HS ngày 10 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Văn H; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 13 tháng 4 năm 1996, tại: Xuân H, Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Thôn Đông B, xã Xuân H, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Đảng: Không; Trình độ học vấn: Lớp 9/12; Họ và tên cha: Trần Văn Th, sinh năm 1970; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Họ và tên mẹ: Trần Thị Q, sinh năm 1974; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Đều trú tại: Thôn Đông B, xã Xuân H, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh; Anh, chị, em ruột: Có 03 người, bị cáo là con thứ hai; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự: Không.
Tiền án: Tại Bản án số 303/2020/HSST ngày 16/11/2020 của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, xử phạt Trần Văn H 14 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. Ngày 16/11/2021, Trần Văn H đã chấp hành xong hình phạt, chưa được xóa án tích.
Bị cáo Trần Văn H bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 13/9/2023 cho đến nay tại xã Xuân H, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; “Có mặt”
- Người bị hại: Anh Võ Văn H; Sinh năm 1978; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi cư trú: Thôn Hải L, xã Xuân H, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; “Vắng mặt”
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Trần Thị Hoa Ph; Sinh năm 1992; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi cư trú: Thôn Đông B, xã Xuân H, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; “Có mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 01 giờ 15 phút ngày 13/8/2023, bị cáo Trần Văn H sau khi đi chơi về qua cửa hàng tạp hoá Thanh H ở thôn Trung V, xã Xuân H, huyện Nghi Xuân của anh Võ Văn H. Bị cáo thấy cửa hàng đóng cửa và tắt điện, nên nảy sinh lấy trộm tài sản, bị cáo dựng xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, biển kiểm soát 38N1- X ngoài đường (xe của chị Trần Thị Hoa Ph bị cáo tự lấy) đi bộ lại cửa hàng chui qua khe hở của cánh cửa sắt vào bên trong có ánh sáng đèn điện ở bên ngoài cổng hắt vào, bị cáo quan sát xung quanh phát hiện tại giá đựng hàng sát với tủ kính có một chiếc hộp nhựa tròn đậy nắp, bị cáo mở ra thấy phía trong có nhiều thẻ Card điện thoại, 01 chiếc hộp bằng kim loại không khóa, bị cáo mở ra thấy trong hộp có nhiều loại tiền có mệnh giá khác nhau, bị cáo lấy và cất dấu các tài sản trên vào túi quần đang mặc. Sau đó, đi vào gian trong cửa hàng thấy anh Võ Văn H đang nằm ngủ, phía đầu giường có 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO đang cắm sạc để trên đầu giường, bị cáo nằm xuống bò lại cạnh giường lấy trộm chiếc điện thoại nói trên cất dấu vào túi quần đang mặc rồi đi ra ngoài theo lối cũ dắt xe máy đi về nhà do không nổ được máy.
Sau khi về đến nhà, bị cáo đưa các tài sản trộm được ra kiểm tra thấy các thẻ Card điện thoại các loại có mệnh giá 20.000 đồng, 50.000 đồng và 100.000 đồng, có tổng trị giá 2.450.000 đồng; Các loại tiền có mệnh giá từ 10.000 đồng, 20.000 đồng, 50.000 đồng, 100.000 đồng và 500.000 đồng có tổng số tiền 3.450.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, A77S, màu đen.
Sáng ngày 14/8/2023, bị cáo bắt xe ô tô đi biển Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa chơi, tiền trộm được bị cáo đã tiêu xài cá nhân hết, Card điện thoại đã sử dụng hết.
Ngày 15/8/2023, Công an xã Xuân H, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh triệu tập, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.
- Vật chứng thu giữ đã trả lại cho chủ sở hữu gồm: Điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, A77S, màu đen là tài sản của anh Võ Văn H; Xe máy nhãn hiệu YAMAHA, số loại NOUVO, màu bạc-nâu, biển kiểm soát 38N1-X là tài sản của chị Trần Thị Hoa Ph.
Vật chứng không thu hồi được gồm: Thẻ Card điện thoại các mệnh giá 20.000 đồng, 50.000 đồng và 100.000 đồng có tổng trị giá 2.450.000 đồng; Tiền có các mệnh giá 10.000 đồng, 20.000 đồng, 50.000 đồng, 100.000 đồng và 500.000 đồng, có tổng số tiền 3.450.000 đồng.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 19/KL-HĐĐGTS ngày 28/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản, kết luận: Điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, A77S, màu đen, đã qua sử dụng, thời điểm định giá tháng 8/2023 là 4.453.000 đồng.
Tổng trị giá các tài sản bị chiếm đoạt là 10.353.000 đồng (Mười triệu ba trăm năm mươi ba nghìn đồng).
- Về trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận lại tài sản điện thoại di động, anh Võ Văn H yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 5.900.000 đồng. Ngày 15/8/2023, bị cáo đã bồi thường số tiền 5.900.000 đồng đủ. Hiện bị hại không yêu cầu gì thêm về trách nhiệm dân sự.
Với hành vi trên, Cáo trạng 38/CT-VKSNX, ngày 31 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố bị cáo Trần Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã truy tố.
Người bị hại vắng mặt, tuy nhiên lời khai tại hồ sơ vụ án phù hợp với lời khai bị cáo và các tài liệu có tại hồ sơ vụ án; không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm về mặt dân sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Xuân vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 38 của Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Trần Văn H 12 – 15 tháng tù;
Tại phiên tòa bị cáo đồng ý với luận tội của Kiểm sát viên, không tranh luận và chỉ xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Nghi Xuân; Kiểm sát viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Nghi Xuân, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng không có khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan, những người tiến hành tố tụng. Nên hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
Tại phiên tòa người bị hại vắng mặt, xét việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử bị cáo nên không cần phải hoãn phiên tòa.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, phù hợp với kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, HĐXX có đủ kết luận:
Khoảng 01 giờ 15 phút ngày 13/8/2023, lợi dụng đêm tối và sơ hở của chủ tài sản, bị cáo đã lén lút lấy trộm các loại thẻ Card điện thoại có giá trị 2.450.000 đồng, 3.450.000 đồng tiền mặt và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, A77S, màu đen của anh Võ Văn H. Tổng trị giá tài sản bị cáo đã chiếm đoạt của bị hại là 10.353.000 đồng (Mười triệu ba trăm năm mươi ba nghìn đồng, nên Cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.
Động cơ, mục đích của bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội mang tính tư lợi, cố ý xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, HĐXX cần xử phạt nghiêm, để giáo dục bị cáo cũng như răn đe và phòng ngừa chung.
[2.2]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đang có 01 tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp “Tái phạm” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; tự nguyện bồi thường thiệt hại; người bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hoàn cảnh gia đình khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện sự liều lĩnh, coi thường pháp luật, tuy đã bị phạt tù nhưng trong thời gian chưa xóa án tích tiếp tục phạm tội mới, tài sản trộm cắp có giá trị, nên cần áp dụng hình phạt tù giam ở mức trên khung hình phạt là phù hợp.
[2.3]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[2.4]. Xét ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị về điều luật áp dụng và hình phạt là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
[2.5]. Về án phí và quyền kháng cáo:
Bị cáo phải chịu án phí hình sự; bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 38 của Bộ luật hình sự;
Điều 135, khoản 2 Điều 136, khoản 1 Điều 292, 331, 333, 336, 337 Bộ luật tố tụng hình sự;
Điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 6, khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, Nghị quyết Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
[1]. Tuyên bố bị cáo Trần Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
[2]. Xử phạt: Bị cáo Trần Văn H 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam bị cáo.
[3]. Buộc bị cáo Trần Văn H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
[4]. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 39/2023/HS-ST
Số hiệu: | 39/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nghi Xuân - Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về