TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T – TỈNH NINH THUẬN
BẢN ÁN 39/2023/HS-ST NGÀY 22/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 22 tháng 9 năm 2023, tại Điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Ninh Thuận và Điểm cầu thành phần Nhà tạm giữ Công an huyện T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 27/2023/TLST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 41/2023/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:
HÁN VĂN S, sinh năm: 1996 tại tỉnh Ninh Thuận. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn V, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: Không biết chữ; giới tính: Nam; dân tộc: Chăm; tôn giáo: Bà ni; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hán Văn T và bà Thập Thị Mỹ D; chưa có vợ, con; tiền án: Ngày 30/9/2019 bị Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt ngày 07/01/2020 (Bản án số 59/2019/HS-ST). Ngày 08/9/2020 bị Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Đồng Nai xử phạt 10 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt ngày 08/4/2021 (Bản án số 66/2022/HS-ST). Ngày 12/11/2021 bị Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Đồng Nai xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt ngày 07/4/2022 (Bản án số 122/2021/HS-ST); tiền sự: Không; bị cáo bắt tạm giam từ ngày 09/5/2023, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện T, tỉnh Ninh Thuận.
(Có mặt) - Bị hại: Cháu Quảng Nữ Yên Nh, sinh năm: 2005; nơi cư trú: Thôn V, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Xin xét xử vắng mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Hán Văn L, sinh năm: 1992; nơi cư trú: Thôn V, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt)
- Người làm chứng:
1. Chị Hán Thị Thu V, sinh năm: 1979; nơi cư trú: Thôn V, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt)
2. Anh Nguyễn Ngọc Tr, sinh năm: 1990; nơi cư trú: Khu phố 2, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 04 giờ ngày 11/4/2023, Hán Văn S đi bộ trong thôn V, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận tìm sơ hở của người dân để trộm cắp. Khi đi đến nhà chị Hán Thị Thu V, sinh năm 1979, trú cùng thôn, phát hiện cửa bên hông nhà mở nên S lén lút đột nhập vào phòng ngủ của cháu Quảng Nữ Uyên Nh, sinh năm 2005 con của chị Vốn lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 Promax và 01 máy tính bảng (không có nhãn hiệu) để trên bàn học của Nh rồi đem về nhà cất giấu.
Đến khoảng 08 giờ cùng ngày, S điều khiển xe mô tô biển số 85E1-X.05 của anh ruột là Hán Văn L trú thôn V xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận đem điện thoại Iphone 11 Promax vừa trộm cắp được đến tiệm điện thoại của anh Nguyễn Ngọc Tr, trú tại địa chỉ 299 Ngô Gia Tự, Phường T, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận để mở khóa, còn máy tính bảng S cất giấu tại nhà để sử dụng. Do nghi ngờ điện thoại trộm cắp mà có nên anh Tr đã kiểm tra điện thoại và thông báo cho cháu Nh biết để trình báo Công an xã P, sau đó cháu Nh cùng Công an xã P đến làm việc với anh Tr và tạm giữ điện thoại nêu trên.
Quá trình làm việc, Hán Văn S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và tự nguyện giao nộp 01 máy tính bảng (không rõ nhãn hiệu) Tại Bản kết luận định giá tài sản số 06/KL-HĐĐG ngày 21 tháng 4 năm 2023, Hội đồng định giá kết luận: Giá trị thực tế của 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 Promax và 01 máy tính bảng là 12.800.000 đồng (Mười hai triệu tám trăm nghìn đồng).
Tại bản Cáo trạng số: 31/CT-VKSTN ngày 17 tháng 8 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Ninh Thuận đã truy tố bị cáo Hán Văn S về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện T giữ quyền công tố luận tội: Hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Hán Văn S phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Mức án từ 02 năm tù đến 02 năm 06 tháng tù.
Lời nói sau cùng: Tại phiên tòa, bị cáo biết hành vi của mình là sai trái vi phạm pháp luật nên mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như sau: Ngày 11/4/2023 tại thôn V, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. Bị cáo Hán Văn S đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu để lén lút trộm cắp của cháu Quảng Nữ Uyên Nh 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone 11 Promax và 01 (Một) máy tính bảng không có nhãn hiệu, có giá trị là 12.800.000đ (Mười hai triệu tám trăm nghìn đồng) theo Bản kết luận định giá tài sản số: 06/KL-HĐĐG ngày 21 tháng 4 năm 2023 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự huyện T.
Xét thấy hành vi nêu trên của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 122/2021/HS-ST ngày 12 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Đồng Nai xác định bị cáo Hán Văn S chưa được xóa án tích (Án đã có hiệu lực pháp luật). Do đó, lần phạm tội này bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, theo quy định tại khoản 2 Điều 53 của Bộ luật hình sự thì đây là tình tiết tăng nặng định khung nên Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo Hán Văn S về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu.
Qua xem xét hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Để đảm bảo tình hình an ninh trật tự tại địa phương nên phải xử phạt bị cáo thật nghiêm với mức án tù có thời hạn là tương xứng tính chất của vụ án, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Do đó, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện cải tạo, rèn luyện bản thân mình thành người tốt sau này là phù hợp với quy định tại Điều 38 của Bộ luật hình sự.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại cháu Quảng Nữ Uyên Nh đã nhận lại tài sản bị mất và không có yêu cầu gì khác. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến.
Đối với xe mô tô biển số 85E1-X.05 mà bị cáo Hán Văn S sử dụng để đem tài sản trộm cắp đi bán là của anh Hán Văn L trú thôn V, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận (Anh ruột bị cáo S). Khi bị cáo Sự lấy xe đi thì anh L không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T không tạm giữ đối với chiếc xe mô tô nói trên là có căn cứ. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.
Tuyên bố bị cáo Hán Văn S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Hán Văn S 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 09/5/2023.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội 14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Hán Văn S phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 22/9/2023). Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 39/2023/HS-ST
Số hiệu: | 39/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuận Bắc - Ninh Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về