Bản án về tội trộm cắp tài sản số 39/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHƯỚC, TỈNH TIỀN GIANG

Bản án số 39/2023/HS-ST ngày 30/08/2023 về tội trộm cắp tài sản

BẢN ÁN 39/2023/HS-ST NGÀY 30/08/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 30 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 26/2023/TLST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2023/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 7 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2023/HSST-QĐ ngày 16 tháng 8 năm 2023, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Minh T (Tên gọi khác: M), sinh năm 1991, tại Sóc Trăng.

Nơi đăng ký thường trú: Ấp NK, xã N, huyện P, thành phố Cần Thơ.

Nghề nghiệp: Làm thuê (Làm mướn); Trình độ học vấn: 9/12.

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Nguyễn Minh T1 và bà Nguyễn Thị T2 (đã chết).

Bị cáo có vợ tên Trương Thị Thu T3, có 01 (một) người con sinh năm 2021. Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Đặc điểm nhân thân:

- Ngày 10/4/2009, bị Tòa án nhân dân quận B, thành phố Cần Thơ xử phạt 09 (chín) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành án xong ngày 12/9/2009, không tính tiền án do khi phạm tội bị cáo chưa thành niên.

- Ngày 06/7/2018, bị Công an xã NK, huyện P, thành phố Cần Thơ ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0003196/QĐ-XPHC ngày 06/7/2018 số tiền 1.200.000 đồng về hành vi “Sử dụng công cụ kích điện để khai thác thủy sản”. Bị cáo chưa chấp hành.

- Ngày 15/9/2018, bị Chủ tịch UBND xã NK, huyện P, thành phố Cần Thơ ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 29/QĐ-UBND ngày 15/9/2018, xử phạt 3.200.000 đồng về hành vi “Hủy hoại tài sản người khác nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”. Bị cáo chưa chấp hành.

- Ngày 27/7/2023, bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Tây Ninh xử phạt 09 (chín) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 62/2023/HS-ST.

- Ngoài ra, bị cáo còn bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang truy tố về tố “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự tại bản Cáo trạng số 08/CT-VKSTKG-P2 ngày 15 tháng 5 năm 2023.

Bị cáo bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B, tỉnh Tây Ninh bắt tạm giam từ ngày 21/02/2023 đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Lý Phước H, sinh năm 1984. (xin vắng mặt)

Địa chỉ: Khu phố B, thị trấn B, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Trần Thanh T4, sinh năm 1980. (xin vắng mặt) Địa chỉ: Số 481 THĐ, Khóm X, Phường Y, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 16/7/2022, bị cáo Nguyễn Minh T một mình điều khiển xe mô tô 02 bánh nhãn hiệu YAMAHA, loại Jupiter biển số 69T1-13xx đến địa bàn Khu phố X, thị trấn M, huyện T, tỉnh Tiền Giang thì quan sát thấy nhà nuôi yến của anh Lý Phước H, sinh năm 1984 nằm cách Tỉnh lộ 867 đi vào khoảng 50 mét, xung quanh không có nhà dân, không có người trông coi nên bị cáo nảy sinh ý định trộm cắp tổ yến thô bán lấy tiền tiêu xài. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, bị cáo điều khiển xe mô tô 02 bánh biển số 69T1-13xx đến khu vực gần nhà yến và giấu xe mô tô trong bụi cỏ cách nhà yến khoảng 300 mét. Bị cáo mang theo xà beng, cái bay (dùng trong xây dựng) và túi nylon màu đen đã được bị cáo chuẩn bị từ trước, đi bộ đến nhà nuôi yến rồi dùng xà beng cạy các lam thông gió đột nhập được vào bên trong nhà yến. Sau khi quan sát thấy bên trong có lắp đặt camera giám sát, bị cáo dùng tay bẻ cụp camera xuống. Tiếp đến, bị cáo dùng cái bay cạy lấy tổ chim yến trên các vách gỗ ở tầng trệt, tầng 1, tầng 2 cho hết vào túi nilong màu đen và theo đường lam thông gió trèo ra ngoài.

Đến khoảng 01 giờ ngày 17/7/2022, bị cáo điều khiển xe mô tô nêu trên đến thành phố B, đem bán toàn bộ tổ yến đã trộm được cho anh Trần Thanh T4, sinh năm 1980 là chủ hộ kinh doanh YSVN có địa chỉ đăng ký kinh doanh tại 96 L, Khóm X, Phường Y, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng được khoảng 26.000.000 đồng (không nhớ chính xác bao nhiêu tiền, nhưng giá bán là 13.000.000/kg, số lượng tổ yến trộm được khoảng 2Kg). Số tiền thu được, bị cáo tiêu xài cá nhân hết.

Đến khoảng 08 giờ ngày 18/7/2022, người dân phát hiện cửa thông gió nhà nuôi yến trên bị bể nên báo anh H biết. Qua kiểm tra, anh H phát hiện bị mất trộm khoảng 500 tổ yến thô có trọng lượng tương đương 2Kg nên ngày 22/7/2023, anh H trình báo sự việc đến Cơ quan công an. Quá trình điều tra, truy tố, bị cáo T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên.

Theo Thông báo giá tài sản số 456/TB-PTCKH ngày 15/8/2022 của Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện T xác định: Tổ yến thô giá bán ngày 16/7/2022 là 20.000.000 đồng/kg. Bị cáo T và anh Lý Phước H thống nhất với kết quả định giá nêu trên. Như vậy, có đủ căn cứ xác định giá trị thiệt hại của tài sản là tổ yến thô mà bị cáo Nguyễn Minh T chiếm đoạt có giá trị thành tiền là 40.000.000 đồng.

Về vật chứng được thu giữ và xử lý:

- Đối với 01 xe mô tô 02 bánh nhãn hiệu YAMAHA, loại Jupiter, gắn biển số 69T1-13xx là phương tiện bị cáo dùng để phạm tội. Tuy nhiên, đây là vật chứng trong vụ án khác do Cơ quan điều tra Công an thị xã C đang khởi tố điều tra nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B đã bàn giao xe cho Cơ quan điều tra Công an thị xã C, tỉnh Tiền Giang để giải quyết theo quy định.

- Đối với cái xà beng và cái bay: Sau khi trộm được tài sản, bị cáo đã vứt bỏ trong quá trình đi bán tổ yến, không nhớ rõ vị trí, địa điểm, Cơ quan điều tra không thu giữ được.

Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại trong vụ án là anh Lý Phước H không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại.

Tại Cáo trạng số 27/CT-VKSTP ngày 07/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước, đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Tân Phước để xét xử đối với bị cáo Nguyễn Minh T về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay:

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Minh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 điều 173; Điều 38; Điều 47; Điều 48; Điều 50; Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T từ 01 (một) năm đến 02 (hai) năm tù; buộc bị cáo nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 26.0000.000 đồng. Ngoài ra đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo chịu án phí hình sự theo quy định.

Bị cáo Nguyễn Minh T thống nhất với ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phước, của Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước, của Kiểm sát viên trong quá trình tiến hành tố tụng điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, tình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp theo quy định của pháp luật.

[2]. Về sự vắng mặt của những người được triệu tập tham gia phiên tòa: Bị hại là anh Lý Phước H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Trần Thanh T4 có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Quá trình điều tra, truy tố anh H và anh T4 đã có lời khai đầy đủ và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì, Kiểm sát viên và bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án. Xét thấy, việc vắng anh H và anh T4 không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt họ theo quy định tại Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Minh T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Lời thừa nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng trong vụ án. Do đó đã có đủ cơ sở để kết luận, hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Minh T đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội danh và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, nên bản cáo trạng số 27/CT-VKSTP ngày 07/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước truy tố bị cáo Nguyễn Minh T về tội danh và hình phạt đã nêu trên là có căn cứ đúng pháp luật.

[4]. Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo biết được việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, bị xã hội lên án, bản thân bị cáo là thanh niên khỏe, mạnh nhưng vì động cơ tư lợi bất chính, chây lười lao động, ý thức xem thường pháp luật, bị cáo đã thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp. Khi thực hiện tội phạm, bị cáo có sự chuẩn bị về công cụ, phương tiện để thực hiện tội phạm với ý thức chiếm đoạt đến cùng tài sản của người khác. Bị cáo đã lợi dụng điều kiện trời tối, địa hình vắng vẻ, ít người qua lại để thực hiện hành vi phạm tội. Tài sản mà bị cáo chiếm đoạt có giá trị lớn, đồng thời có thể gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất bình thường của bị hại.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự xã hội tại địa phương nơi bị cáo thực hiện tội phạm, tạo sự bất bình, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng một mức hình phạt thật thỏa đáng, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dục giáo dục bị cáo, cải tạo bản thân bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội, biết tôn trọng tài sản hợp pháp của người khác nói riêng và đấu tranh phòng ngừa tội phạm, đảm bảo an toàn trật tự xã hội nói chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo và hình phạt áp dụng đối với bị cáo:

[5.1]. Về tính tiết tăng nặng: Bị cáo Nguyễn Minh T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5.2].Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Minh T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5.3]. Bản thân bị cáo T có nhân thân xấu, đã bị xử phạt 09 (chín) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, hai lần bị xử phạt hành chính về các hành vi vi phạm pháp luật khác, bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Tây Ninh xử phạt 09 (chín) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 62/2023/HS-ST ngày 27/7/2023. Ngoài ra bị cáo còn đang bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang truy tố tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 4 Điều 173 Bộ luật Hình sự, do đó Hội đồng xét xử có xem xét khi nghị án, lượng hình.

[5.4]. Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử thống nhất không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[6]. Đối với anh Trần Thanh T4 là chủ hộ kinh doanh YSVN có địa chỉ đăng ký kinh doanh tại 96 L, Khóm X, Phường Y, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Hộ kinh doanh của anh T4 có giấy phép kinh doanh, việc thu mua tổ yến thô từ bị cáo T, anh T4 không biết đây là tài sản do bị cáo phạm tội mà có, cũng không có hứa hẹn gì trước với bị cáo về việc thu mua tổ yến từ bị cáo nên không có căn cứ xử lý trách nhiệm hình sự đối với anh Trần Thanh T4.

[7]. Về vật chứng của vụ án:

[7.1]. Đối với 01 (một) xe mô tô 02 bánh nhãn hiệu YAMAHA, loại Jupiter biển số 69T1-13xx mà bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội, quá trình điều tra, Công an huyện B, tỉnh Tây Ninh đã chuyển cho Công an thị xã C, tỉnh Tiền Giang để xử lý do đây là vật chứng trong vụ án khác mà Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Cđang điều tra nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7.2]. Đối với cái xà beng và cái bay là công cụ bị cáo dùng để phạm tội: Cơ quan điều tra không thu giữ được do bị cáo đã vứt bỏ trong quá trình đi bán tổ yến, không nhớ rõ vị trí, địa điểm, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[8]. Về trách nhiệm dân sự và xử lý tiền thu lợi bất chính: Trong quá trình giải quyết vụ án, bị hại là anh Lý Phước H có ý kiến không yêu cầu bị cáo phải bồi hoàn số tiền 40.000.000 đồng là giá trị của 2Kg tổ yến thô bị mất trộm, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Tuy nhiên, sau khi chiếm đoạt được tài sản, bị cáo đã đem đi bán thu lợi bất chính được số tiền 26.000.000 đồng, Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự cần thiết buộc bị cáo phải nộp lại số tiền thu lợi bất chính để sung vào ngân sách Nhà nước.

[9]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

[10]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được thực hiện quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm. Anh Lý Phước H và anh Trần Thanh T4 được thực hiện quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm.

[11]. Xét lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử về tội danh, hình phạt, xử lý vật chứng nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh Trạng phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng Khoản 1 Điều 173; Điều 38; Điều 50; Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam, ngày 21/02/2023.

2. Xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Buộc bị cáo Nguyễn Minh T nộp lại số tiền 26.000.000 đồng (Hai mươi sáu triệu đồng) thu lợi bất chính để sung vào ngân sách Nhà nước.

3. Về án phí:

- Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Minh T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

- Áp dụng các Điều 331, 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Bị cáo Nguyễn Minh T được thực hiện quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm; Anh Lý Phước H và anh Trần Thanh T4 được thực hiện quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 39/2023/HS-ST

Số hiệu:39/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phước - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về