Bản án về tội trộm cắp tài sản số 391/2021/HS-ST

TÒA ÁN NH DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH Đ

BẢN ÁN 391/2021/HS-ST NGÀY 05/10/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 05 tháng 10 năm 2021, tại trụ Tòa án Nhân dân thành phố B đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 437/2021/HSST ngày 28/07/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 437/2021/QĐXXST-HS ngày 04/08/2021; Thông báo dời lịch mở phiên toà số 1065/TB-TA ngày 31/08/2021 và số 1009/TB-TA ngày 16/09/2021 đối với bị cáo:

Kiều Văn Ch; Giới tính: Nam; Sinh năm 1994; Nơi sinh: tỉnh Bắc Giang.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: xã Hoàng Lương, huyện Hiệp Hòa, tỉnh B; Quốc tịch: Việt Nam - Dân tộc: Kinh - Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Trình độ học vấn: Lớp 12/12; Họ tên cha: Kiều Văn C, sinh năm: 1974, còn sống. Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Ng, sinh năm: 1975, còn sống. Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền sự: Không.

Tiền án: Ngày 19/9/2016, bị Tòa án Nhân dân Thành phố B, tỉnh Đ xử phạt 01 năm 08 tháng tù giam về tội “Cướp tài sản”. (hiện chưa được xóa án tích).

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 27/4/2021. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an thành phố B, tỉnh Đ.

- Bị hại: Chị Trịnh Thị Bích L, sinh năm 1991.

Địa chỉ: 125/622, Khu phố 4, phường Long Bình, thành phố B, tỉnh Đ.

Nơi ở hiện nay: 738/37/3, Khu phố 7, phường Tam Hiệp, Thành phố B, tỉnh Đ.

(Bị cáo Ch và bị hại Trịnh Thị Bích L đều có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11h30 phút ngày 16/4/2021, Kiều Văn Ch phát hiện ngoài hành lang của dãy trọ mình đang ở thuộc nhà trọ số 33B, tổ 1, Khu phố 6, phường Long Bình, Thành phố B, tỉnh Đ có dựng 01 xe mô tô hiệu Honda Vision biển số 60F2-059.05 của chị Trịnh Thị Bích L, xe không khóa cổ và không có người trông coi nên đã nảy sinh ý định trộm cắp. Thực hiện ý định trên, Ch lén lút dắt chiếc xe của chị L ra ngoài đường, sau đó đấu dây điện làm nổ máy xe rồi điều khiển xe mang đi cầm đồ được số tiền 4.500.000đ tiêu xài hết. Cùng ngày, sau khi phát hiện mất xe, chị L đã trình báo công an, qua rà soát hệ thống camera phát hiện được hành vi nói trên của Ch, nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã bắt giam đối với Ch để điều tra và xử lý theo pháp luật.

Vật chứng vụ án:

- Xe mô tô bị mất không thu hồi được.

- 01 tua vít dài khoảng 15cm, sau khi Ch sử dụng để đấu nguồn điện nhằm nổ máy xe, Ch đã vứt bỏ trên đường nên không thu hồi được.

- 01 thiết bị lưu trữ (USB) do anh Đào Công V giao nộp, có lưu rữ file ghi hình L quan đến hành vi trộm cắp tài sản của Ch, được lưu trữ kèm theo hồ sơ vụ án.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 181/KL-HĐĐGTS ngày 26/04/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Vision biển số 60F2-059.05 đã qua sử dụng, có tổng giá trị là 29.700.000 đồng (Hai mươi chín triệu bảy trăm ngàn đồng).

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra và tại đơn xin xét xử vắng mặt, bị hại là chị Trịnh Thị Bích L yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 29.700.000 đồng (Hai mươi chín triệu bảy trăm ngàn đồng) là giá trị chiếc xe theo giá trị định giá. Hiện bị cáo chưa bồi thường. Đồng thời về phần hình phạt đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 451/CT/VKS-BH ngày 27/07/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Kiều Văn Ch về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại Điều 173, khoản 1 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa ngày hôm nay, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Ch về tội danh “Trộm cắp tài sản”; áp dụng các tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, đồng thời đề nghị HĐXX tuyên phạt bị cáo Kiều Văn Ch mức án từ: 01 năm 06 tháng tù giam đến 02 năm tù giam.

Về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp và án phí đề nghị giải quyết theo uy định của pháp luật.

Đối với nội dung Ch khai sau khi lấy trộm được tài sản, bị cáo đã mang xe đến cầm cho anh Trịnh Hồng Nh, sinh năm 1976, ngụ tại 383, tổ 4, KP5, phường Long Bình, thành phố B, tỉnh Đ là chủ tiệm bán ve chai. Tuy nhiên quá trình điều tra anh Nh không thừa nhận, chưa đủ căn cứ để kết luận anh Nh L quan đến tài sản bị mất do đó Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau là có căn cứ.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, lời khai bị hại, người làm chứng có tại hồ sơ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1]. Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Trước khi mở phiên toà, bị cáo Kiều Văn Ch có đơn xin xét xử vắng mặt có xác nhận của Nhà tạm giữ công an Thành phố B. Việc làm đơn của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, áp dụng điểm c khoản 2 Điều 290 Bộ luật tố tụng hình sự để xét xử vắng mặt bị cáo Ch.

Người bị hại là chị Trịnh Thị Bích L có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa. Do đó, Toà án căn cứ vào khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự để xét xử vắng mặt chị L.

[2]. Về hành vi bị truy tố, tội danh và các tình tiết L quan đến việc quyết định hình phạt:

Xét thấy, quá trình điều tra, truy tố và đơn xin xét xử vắng mặt bị cáo Ch thống nhất với nội dung Bản cáo trạng mô tả hành vi phạm tội của mình, theo đó, hồ sơ đã thể hiện vào khoảng 11h30 phút ngày 16/04/2021, khi phát hiện chiếc xe mô tô hiệu Honda Vision biển số 60F2-059.05 của chị Trịnh Thị Bích L dang dựng tại dãy nhà trọ mình đang ở không khóa cổ, không người trông coi, nên bị cáo đã có hành vi lén lút trộm cắp chiếc xe nói trên mang đi cầm được 4.500.000đ tiêu xài cá nhân hết. Theo kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thì chiếc xe bị mất của chị L có giá trị là 29.700.000đ. Lời khai này của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án. Do đó, đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Ch đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, như nội dung Bản cáo trạng đã truy tố và bản luận tội của vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu tại phiên tòa ngày hôm nay.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo Kiều Văn Ch là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp tài sản của người khác là khách thể được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Bản thân bị cáo Ch là một thanh niên đã trưởng thành, có sức khỏe, có khả năng lao động, để nuôi sống bản thân. Tuy nhiên, vì lòng tham cá nhân và muốn có tiền tiêu xài mà không phải bỏ sức bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của chị Trịnh Thị Bích L rồi đem đi tiêu thụ với giá rẻ để lấy tiền phục vụ việc sinh hoạt cá nhân. Trước khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản này, bị cáo đã có 01 tiền án về tội “Cướp tài sản” nhưng chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới, điều đó cho thấy bị cáo là đối tượng rất liều lĩnh, coi thường pháp luật, khó cải tạo, giáo dục để trở thành công dân có ích cho xã hội. Sau khi phạm tội, tài sản không hu hồi được và bản thân bị cáo cũng chưa bồi thường được một khoản tiền nào cho người bị hại. Vì vậy, cần thiết phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà các bị cáo đã gây ra, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Tuy nhiên, xét thấy quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn, hối cải về hành vi đã thực hiện. Đây là những tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[3]. Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra và tại đơn xin xét xử vắng mặt, người bị hại chị Trịnh Thị Bích L yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 29.700.000đ (Hai mươi chín triệu bảy trăm ngàn đồng), hiện bị cáo cũng chưa bồi thường. Xét yêu cầu này của chị L là chính đáng và đúng quy định của pháp luật, nên được chấp nhận. Về phần trách nhiệm hình sự chị đề nghị xem xét theo quy định của pháp luật.

[4]. Về vật chứng của vụ án là 01 thiết bị lưu trữ (USB) do anh Đào Công V giao nộp, có lưu rữ file ghi hình L quan đến hành vi trộm cắp tài sản của Ch, được lưu trữ kèm theo hồ sơ vụ án

[5].Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo Ch phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 1.485.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Kiều Văn Ch phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Về áp dụng điều luật: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; Điều 42 Bộ luật hình sự; Điều 584; 585 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015; điểm c khoản 2 Điều 290; khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

- Về mức hình phạt: Xöû phaït bị cáo Kiều Văn Ch: 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 27/04/2021.

- Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Kiều Văn Ch phải bồi thường cho chị Trịnh Thị Bích L số tiền 29.700.000đ (Hai mươi chín triệu bảy trăm ngàn đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

-Về vật chứng của vụ án là 01 thiết bị lưu trữ (USB) do anh Đào Công V giao nộp, có lưu rữ file ghi hình L quan đến hành vi trộm cắp tài sản của Ch, được lưu trữ kèm theo hồ sơ vụ án - Về án phí: Buộc bị cáo Kiều Văn Ch phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 1.485.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

467
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 391/2021/HS-ST

Số hiệu:391/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:05/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về