TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 38/2023/HS-ST NGÀY 27/03/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 3 năm 2024 tại phòng xử án, trụ sở Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 07/2024/TLST-HS ngày 11 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2024/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2024 đối với:
Bị cáo: Nguyễn Cao C, tên gọi khác: không; sinh năm 1988, tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Nơi đăng ký HKTT: Không có nơi cư trú ổn định; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 01/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh L và bà Cao Thị Huyền N; anh, chị, em: có 03 chị em và bị cáo là con út.
Tiền án: 03 tiền án - Ngày 16/8/2007, bị Tòa án quận Bình Thạnh ra bản án số 173/2007/HSST tuyên phạt 01 năm tù về tội "trộm cắp tài sản".
- Ngày 26/02/2010, bị Tòa án quận Bình Thạnh ra bản án số 43/2010/HSST tuyên phạt 02 năm tù về tội "trộm cắp tài sản".
- Ngày 26/12/2013, bị Tòa án tỉnh Bến Tre ra bản án số 199/2013/HSPT tuyên phạt 09 năm tù về tội "tàng trữ trái phép chất ma túy" (phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm), đã đóng án phí ngày 26/8/2014, chấp hành xong hình phạt tù ngày 31/01/2021.
Tiền sự: 01.
- Ngày 25/5/2022, bị Tòa án quận Bình Thạnh ra quyết định đưa đi cai nghiện ma túy bắt buộc số 115/2022/QĐ-TA, chấp hành xong ngày 11/5/2023.
Nhân thân:
- Từ 1988-2006: Còn nhỏ, sống phụ thuộc vào gia đình, đi học hết lớp 1/12 sau đó làm nghề lao động tự do.
- Năm 2007 – tháng 5/2008: Trộm cắp tài sản, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thạnh khởi tố, sau đó bỏ trốn bị truy nã, bị bắt, Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh xử phạt 01 năm tù giam (Chấp hành xong án phạt tù ngày 25/5/2008).
- Từ tháng 5/2008 – tháng 10/2009: Làm nghề lao động tự do.
- Ngày 27/10/2009 bị bắt, bị Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh xử phạt 02 năm tù về tội “trộm cắp tài sản”, theo bản án số 43/2010/HSST, ngày 26/02/2010. Bị can đã chấp hành xong hình phạt tù, về địa phương sống lang thang.
- Ngày 27/6/2023, bị Công an huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre bắt về hành vi "tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị Tòa án nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre xử phạt 09 năm tù giam theo bản án số: 54/2013/HSST, Ngày 30/9/2013, Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xử phúc thẩm tuyên y bản án sơ thẩm. Ngày 31/01/2021 bị can chấp hành xong hình phạt tù, về tại quận Bình Thạnh sống lang thang. Đến ngày 25/5/2023, Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh có Quyết định số 115/2022/QĐ-TA về việc đưa Nguyễn Cao C2 đi cai nghiện ma túy bắt buộc tại Trung tâm cai nghiện Phú Văn. Ngày 11/5/2023, Nguyễn Cao C2 chấp hành xong việc cai nghiện ma túy. Về tại quận Bình Thạnh sống lang thang.
Bị can bị áp dụng biện pháp tạm giam từ ngày 27/9/2023 tại Trại tạm giam Chí Hòa (T30) - Công an Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Em Hồ Dương K3, sinh năm 2007 (vắng mặt). Người giám hộ 1. Ông Hồ Dương M, sinh năm 1978 Cùng địa chỉ: 304/85/35A B, Phường X, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Hồ Dương M, sinh năm 1978 Cùng địa chỉ: 304/85/35A B, Phường X, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
2. Bà Dương Thị H, sinh năm 1973 Địa chỉ: 943/2A Tỉnh lộ 10, Phường Tân Tạo, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
- Người làm chứng:
1. Em Nguyễn Minh K2, sinh năm 2007 (vắng mặt). Người giám hộ 1. Ông Nguyễn Thu H2, sinh năm 1969
2. Bà Trịnh Nguyễn Thủy T3, sinh năm 1980 Cùng địa chỉ: 45/43/2F N, Phường S, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Cao C2 là đối tượng sống lang thang tại khu vực gầm cầu Bùi Hữu Nghĩa, Phường 01, quận Bình Thạnh và gầm cầu Bình Triệu, Phường 26, quận Bình Thạnh. Khoảng 11 giờ ngày 26/9/2023, C2 thấy em Hồ Dương K3 (sinh năm 2007) điều khiển xe mô tô hiệu Honda AirBlade biển số 50N1-242.xx chở bạn tên Nguyễn Minh K2 đến dựng xe dưới gầm cầu Bùi Hữu Nghĩa, rồi bỏ đi ra bờ kè đường Trường Sa cách đó khoảng 05 mét để câu cá. C2 phát hiện chìa khoá vẫn cắm trên xe nên lợi dụng lúc không người trông coi, C2 liền đi đến, ngồi lên xe, nổ máy tẩu thoát theo đường Trường Sa về hướng cầu Kiệu. Em Khang có chạy bộ đuổi theo nhưng không kịp. Đến 15 giờ cùng ngày, em Khang đến Công an phường 01, quận Bình Thạnh trình báo.
C2 đi đến khu vực cầu Bình Triệu, Phường 26, quận Bình Thạnh, thay đồ, vứt bỏ quần jeans mặc khi trộm cắp xuống sông, thay đồ mới, rồi điều khiển xe trộm cắp được đến khu vực lăng Bà Chiểu. C2 lấy sim điện thoại của bản thân, rồi mượn điện thoại người dân gọi cho đối tượng tên Toàn (không rõ lai lịch) hỏi bán xe. Toàn đồng ý mua với giá 4.000.000 đồng, hẹn giao dịch tại bên hông nhà 259 Bùi Hữu Nghĩa, phường 01, quận Bình Thạnh. Lúc 15 giờ 30 phút cùng ngày, trong lúc C2 đang đợi Toàn nhưng chưa gặp được, thì bị Công an Phường 01, quận Bình Thạnh kiểm tra hành chính mời về làm việc, thu giữ được xe mô tô hiệu Honda AirBlade biển số 50N1- 242.xx.
Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Cao C2 khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên.
Bản Kết luận định giá tài sản số: 215/KLĐGTT-TCKH ngày 20/10/2023 của Hội đồng định giá tài sản TTHS quận Bình Thạnh kết luận: mô tô hiệu Honda AirBlade biển số 50N1-242.xx có giá trị 15.000.000 đồng.
Vật chứng:
- 01 xe mô tô hiệu Honda AirBlade biển số 50N1-242.xx do Nguyễn Cao C2 giao nộp.
Kết quả xác minh xe này do bà Dương Thị H đứng tên đăng ký. Bà Hơn bán xe này cho ông Hồ Dương M vào ngày 08/9/2023 nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Đến ngày 26/9/2023, con ruột ông Minh là em Hồ Dương K3 sử dụng xe này để đi lại rồi bị C2 lấy trộm. Hiện Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại xe này cho ông Minh.
- 01 hợp đồng mua bán xe mô tô hiệu Honda AirBlade biển số 50N1- 242.xx giữa bà Dương Thị H và ông Hồ Dương M.
- 01 áo thun cổ tròn dài tay màu xanh đen, 01 sim điện thoại di động do Nguyễn Cao C2 giao nộp.
- 01 usb chứa video camera ghi hình vụ trộm cắp tài sản tại khu vực gầm cầu Bùi Hữu Nghĩa, phường 01, quận Bình Thạnh, ngày 26/9/2023 do ông Huỳnh Văn Đ giao nộp.
Về dân sự:
- Ông Hồ Dương M đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu bồi thường gì khác.
Tại bản cáo trạng số 25/CT-VKSBTh ngày 10 tháng 01 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh, đã truy tố bị can Nguyễn Cao C2 về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g Khoản 2, Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, Bị cáo Nguyễn Cao C2 khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng nêu. Bị cáo thống nhất với tội danh và khung hình phạt như cáo trạng đã nêu, thừa nhận việc truy tố là đúng người, đúng tội, không oan sai.
Sau khi kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh trình bày bản luận tội giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bị cáo Nguyễn Cao C2 phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
+ Áp dụng điểm g khoản 2, Điều 173; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Cao C2 hình với mức hình phạt từ 03 năm đến 04 năm tù.
- Về các biện pháp tư pháp đối với người phạm tội và xử lý vật chứng:
Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Lưu hồ sơ: 01 usb chứa video camera ghi hình vụ trộm cắp tài sản tại khu vực gầm cầu Bùi Hữu Nghĩa, phường 01, quận Bình Thạnh, ngày 26/9/2023 do ông Huỳnh Văn Đ giao nộp.
- Tịch thu tiêu hủy: - 01 áo thun cổ tròn dài tay màu xanh đen, 01 sim điện thoại di động do Nguyễn Cao C2 giao nộp.
- Trách nhiệm dân sự: Ông Hồ Dương M đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu bồi thường gì khác.
Phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận.
Trong lời nói sau cùng, bị cáo biết mình có tội xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm về xã hội làm lại cuộc đời.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thạnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì, cũng không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.
[2] Về tội danh: Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Cao C2 tại cơ quan điều tra, cũng như tại phiên tòa hôm nay, qua xét hỏi bị cáo Nguyễn Cao C2 đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh đã truy tố đối với bị cáo. Căn cứ vào lời khai nhận tội bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra thu thập được có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Nguyễn Cao C2 lợi dụng sơ hở của bị hại đã lén lút chiếm đoạt 01 xe mô tô hiệu Honda AirBlade biển số 50N1-242.xx trị giá 15.000.000 đồng với mục đích trộm cắp để bán tiêu xài cá nhân cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 215/KLĐGTT-TCKH ngày 20/10/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Bình Thạnh kết luận: mô tô hiệu Honda AirBlade biển số 50N1-242.xx có giá trị 15.000.000 đồng.
Với hành vi như đã nêu trên của bị cáo, xét thấy cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là có cơ sở pháp lý, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách hiệm hình sự:
Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng. Bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đủ nhận thức để nhận biết được hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, bị cáo đã thực hiện hành vi lấy trộm tài sản của bị hại, đây là hành vi mà pháp luật nghiêm cấm. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự an ninh xã hội, gây hoang mang cho người dân. Do đó, cần xử phạt bị cáo một mức án tù giam là phù hợp, nhằm giáo dục bị cáo trở thành người tốt cho xã hội, chấp hành pháp luật và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.
Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy: Bị cáo trộm cắp tài sản trị giá 15.000.000 đồng. Bị cáo có nhân thân xấu, 02 tiền án cũng về tội “Trộm cắp tài sản” và 01 tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, điều này thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo. Tuy nhiên, Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước. Vì vậy, Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.
Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.
[4] Về các biện pháp tư pháp đối với người phạm tội và xử lý vật chứng:
Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106, Bộ luật tố tụng hình sự 2015:
Vật chứng:
- Lưu hồ sơ: 01 usb chứa video camera ghi hình vụ trộm cắp tài sản tại khu vực gầm cầu Bùi Hữu Nghĩa, phường 01, quận Bình Thạnh, ngày 26/9/2023 do ông Huỳnh Văn Đ giao nộp.
- Tịch thu tiêu hủy: - 01 áo thun cổ tròn dài tay màu xanh đen, 01 sim điện thoại di động do Nguyễn Cao C2 giao nộp.
- Trách nhiệm dân sự: Ông Hồ Dương M đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu bồi thường gì khác.
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Cao C 03 (ba) năm tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 27 tháng 9 năm 2023.
Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
- Lưu hồ sơ: 01 usb chứa video camera ghi hình vụ trộm cắp tài sản tại khu vực gầm cầu Bùi Hữu Nghĩa, phường 01, quận Bình Thạnh, ngày 26/9/2023 do ông Huỳnh Văn Đ giao nộp.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 áo thun cổ tròn dài tay màu xanh đen, 01 sim điện thoại di động do Nguyễn Cao C giao nộp.
(Tình trạng giao nhận vật chứng như biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, chứng cứ ngày 04/01/2022 giữa Công an quận Bình Thạnh với Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh).
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nguyễn Cao C phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Bị cáo Nguyễn Cao C được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người giám hộ, Người có lợi nghĩa vụ liên quan và người giám hộ được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 38/2023/HS-ST
Số hiệu: | 38/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về