Bản án về tội trộm cắp tài sản số 378/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 378/2021/HS-ST NGÀY 08/07/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 08 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 310/2021/HSST ngày 24/5/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 337/2021/QĐXXST-HS ngày 18/6/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Huỳnh Thanh L; Tên gọi khác: Long cu bưởi; Giới tính: Nam; Sinh năm 1994 tại Đồng Nai; Nơi cư trú:  phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: Lớp 08/12;

Họ tên cha: Huỳnh Văn B - Sinh năm 1969 (còn sống); Họ tên mẹ: Đỗ Thị Kim N - Sinh năm 1970 (còn sống); Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Sống chung như vợ chồng với chị Nguyễn Trâm P, sinh năm 1999, có 02 con, con lớn sinh năm 2015; con nhỏ sinh năm 2017.

Tiền án: 02 (hai) Ngày 21/3/2018, Huỳnh Thanh L bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai tuyên phạt 06 (sáu) tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” (Chưa được xóa án tích).

Ngày 28/2/2019, Huỳnh Thanh L bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai tuyên phạt 12 (Mười hai) tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” (Chưa được xóa án tích).

Tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ ngày 10/12/2020, chuyển tạm giam theo lệnh số 10/CSĐT –ĐTTH ngày 19/12/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B.

- Bị hại:

1/Anh Lê Văn T, sinh năm 2000 Địa chỉ:  phường P, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

2/Anh Mai Anh T, sinh năm 1997 Địa chỉ: Xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/Anh Phạm T, sinh năm 1970 Địa chỉ:  phường T, thành phố B, tỉnh Đồng

2/Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1985 Địa chỉ: khu phố 7, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

- Người làm chứng: Anh Trương Văn H, sinh năm 2000 Địa chỉ: xã M, huyện H, tỉnh Bạc Liêu.

(Bị cáo có mặt; Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 03/9/2020 và ngày 10/12/2020, Huỳnh Thanh L đã thực hiện 02 (hai) vụ Trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố B, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 11 giờ 30 ngày 03/9/2020, Huỳnh Thanh L đang đi bộ trên đường nội bộ thuộc khu phố Đồng, phường P, thành phố B thì gặp anh Trương Văn H, sinh năm: 2000 (là bạn của L) đang điều khiển xe mô tô không rõ nhãn hiệu, biển số đi ngang qua nên L đã gọi H lại và nhờ H chở L đi đến nhà anh Lâm Văn L1 (tên thường gọi Bé Hai), sinh năm 1978 tại tổ 3, khu phố Đ, phường P, thành phố B chơi thì H đồng ý chở. Đến nơi nhưng không có anh L ở nhà nên L nhờ H chở L về nhà tại khu phố 1, phường A, thành phố B thì H nói xe hết xăng nên không đồng ý chở. Lúc này L phát hiện 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển số: 60F2 - 065.68 của anh Lê Văn T, sinh năm: 2000 đang dựng trước nhà cách vị trí của L khoảng 05 mét và không có người trông coi nên L đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe mô tô trên để làm phương tiện đi lại. Thực hiện ý định trên, L đi lại vị trí xe thì nhìn thấy ổ khóa xe bị hư. Sau đó, L rủ H cùng trộm chiếc xe mô tô trên nhưng H không đồng ý nên L đã quay đầu xe mô tô của anh T ra ngoài đường rồi leo lên xe nổ máy điều khiển xe chạy về nhà. Đến 14 giờ cùng ngày, L điều khiển xe mô tô vừa trộm được đến nhà anh Phạm T (tên thường gọi là cậu Hon), sinh năm: 1970 tại địa chỉ: B19/9A, tổ 10, Khu phố 5, phường T, thành phố B chơi, sau đó, L để lại xe mô tô trên tại nhà anh T rồi đi về.

Bị mất tài sản anh Lê Văn T đã đến Công an phường P, thành phố B trình báo sự việc và nhờ anh Lâm Văn L1 tìm giúp xe. Sau đó anh L1 đến gặp L thì L thừa nhận đã trộm cắp xe mô tô của anh T và nói xe mô tô trên đang để ở nhà anh T. Sau đó anh L1 đã đưa anh T đến nhà anh T và nhận lại xe mô tô trên. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B, L đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng vụ án gồm:

+ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ đen, biển số: 60F2 - 065.68 đã được thu hồi trả lại cho chủ sở hữu là anh Lê Văn T.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 432/TCKH-HĐĐG ngày 05/10/2020, của Hội đồng định giá tài sản thành phố B kết luận: “01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ-đen biển số: 065.68 có giá trị tài sản định giá là: 12.810.000 đồng (Mười hai triệu, tám trăm mười nghìn đồng)”.

Về dân sự:

+ Anh Lê Văn T đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu L bồi thường.

Vụ thứ hai: Khoảng 06 giờ 30 ngày 10/12/2020, L đón taxi đi đến nhà nghỉ “Minh Châu” tại địa chỉ khu phố 7, phường T, thành phố B để nghỉ. Đến 08 giờ cùng ngày, L trả phòng ra về khi vừa đi xuống cầu thang thì phát hiện xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển số : 60B7-209.46 của anh Mai Anh T, Sinh năm 1997 đang dựng ở dưới hầm để xe của nhà nghỉ và không có người trông coi nên L đã nảy sinh ý định trộm cắp xe mô tô trên. Thực hiện ý định, L liền đi đến dẫn chiếc xe mô tô trên ra ngoài rồi tẩu thoát. Sau đó, L dắt xe đẩy bộ đi đến một tiệm sửa xe cách nhà nghỉ khoảng 01km để mở khóa xe. Sau khi mở khóa xe xong L điều khiển xe đi về nhà.

Đến 10 giờ cùng ngày anh T xuống trả phòng thì phát hiện xe bị mất nên đã báo cho chị Nguyễn Thị T là chủ nhà nghỉ. Qua trích xuất camera xác định L là người lấy xe mô tô của anh T nên chị T đã nghe lại đoạn video do camera nhà nghỉ ghi lại và biết được số điện thoại của L nên đã gọi điện thoại cho L giả vờ nhờ L chở lên thành phố Hồ Chí Minh thì L đồng ý chở. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày khi L điều khiển xe mô tô trộm được của anh T đến trường mầm non Hòa Bình thuộc khu phố 4, phường H, thành phố B thì bị chị T cùng người dân bắt giữ L cùng xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter BS: 60B7-209.46 giao Công an phường T lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B xử lý.

Vật chứng vụ án gồm:

+ 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xanh biển số 60B7- 209.46 đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B thu hồi trả lại cho chủ sở hữu là anh Mai Anh T.

+ 01 (Một) chiếc đĩa CD chứa 01 (một) video clip ghi lại hình ảnh đối tượng trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xanh biển số: 60B7- 209.46 tại nhà nghỉ “Minh Châu” tại địa chỉ khu phố 7, phường T, thành phố B của anh Mai Anh T. (Lưu tại hồ sơ).

Tại bản kết luận định giá tài sản số 570/TCKH-HĐĐG ngày 15/12/2020, của Hội đồng định giá tài sản thành phố B kết luận: “01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu Xanh, biển số: 60B7-209.46 có giá trị tài sản định giá là: 24.407.900 đồng (Hai mươi bốn triệu, bốn trăm lẻ bảy nghìn, chín trăm đồng)”.

Về dân sự:

+ Anh Mai Anh T đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu L bồi thường.

+ Người có quyền lời, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chị Nguyễn Thị T không yêu cầu L bồi thường.

Căn cứ vào các tình tiết và chứng cứ nêu trên Tại bản cáo trạng số 311/CT-VKSBH ngày 18/5/2021, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B đã truy tố bị cáo Huỳnh Thanh L điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa ngày hôm nay, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 để xử phạt bị cáo Huỳnh Thanh L về tội “Trộm cắp tài sản” với mức án từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù giam đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù giam.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Huỳnh Thanh L thừa nhận: Vào ngày 03/9/2020 và ngày 10/12/2020, bị cáo đã thực hiện 02 (hai) vụ Trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố B, cụ thể như sau: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 03/9/2020, bị cáo đã có hành vi trộm cắp 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ đen, biển số: 60F2 – 065.68 trị giá 12.810.000 đồng (Mười hai triệu tám trăm mười nghìn đồng) của anh Lê Văn T. Tiếp theo khoảng 08 giờ 00 ngày 10/12/2020, bị cáo đã có hành vi trộm cắp 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển số: 60B7 – 209.46 trị giá 24.407.900 đồng (Hai mươi bốn triệu, bốn trăm lẻ bảy nghìn, chín trăm đồng) của anh Mai Anh T thì bị cáo bị bắt giữ để điều tra. Tổng trị giá tài sản của 02 (hai) vụ trộm cắp tài sản là 37.217.900 đồng (Ba mươi bảy triệu, hai trăm mười bảy nghìn, chín trăm đồng).

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ.

Tại thời điểm phạm tội bị cáo đã có 02 (hai) tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, nên tiền án này được coi là tình tiết định khung theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Huỳnh Thanh L phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân thành phố B đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo Huỳnh Thanh L là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp tài sản của người khác là khách thể được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.

Bản thân bị cáo L là một người đã trưởng thành, có nhận thức, có đủ sức khỏe để tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình. Nhưng vì muốn có tiền tiêu xài, có phương tiện đi lại mà không phải bỏ sức lao động, bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của bị hại trong việc quản lý tài sản, cố ý thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của bị hại. Bị cáo đã có 02 (hai) tiền án, chưa được xóa án tích, không lấy đó làm bài học, tu dưỡng, rèn luyện bản thân, mà tiếp tục phạm tội thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Vì vậy, cần thiết phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà các bị cáo đã gây ra, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về các tình tiết tăng nặng: Phạm tội 02 lần trở lên (quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự).

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường và không có yêu cầu gì khác, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[7] Đối với anh Phạm T có hành vi chứa chấp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển số 60F2-065.68 của bị cáo. Tuy nhiên, anh T không biết tài sản trên do bị cáo L phạm tội mà có nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B không xử lý hình sự.

Đối với anh Trương Văn H không tham gia cùng bị cáo L trộm cắp chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển số 60F2-065.68 của anh Lê Văn T nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B không xử lý hình sự.

[8] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo Huỳnh Thanh L phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Thanh L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo Huỳnh Thanh L 03 (Ba) năm tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 10/12/2020.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Buộc bị cáo Huỳnh Thanh L phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 378/2021/HS-ST

Số hiệu:378/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về