Bản án về tội trộm cắp tài sản số 36/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 36/2022/HS-ST NGÀY 26/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông mở phiên tòa xét xử vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 34/2022/TLST-HS ngày 22 tháng 8 năm 2022; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2022/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông đối với bị cáo:

Trần Văn Đ, Sinh 1981 tại tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: Thôn 3 Kênh G, xã Gia T, huyện Gia V, tỉnh Ninh Bình; Trình độ văn hóa: 01/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn N, sinh năm 1954 và bà Trần Thị R, sinh năm 1956; Bị cáo có vợ (đã ly hôn) là Nguyễn Thị T và 03 con (Con lớn nhất sinh năm 2001, con nhỏ nhất sinh năm 2004). Tiền án; Tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt theo quyết định truy nã ngày 08/6/2022, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ công an huyện K - Có mặt.

Bị hại: Ông Phạm Văn D – Có mặt.

Địa chỉ: Thôn Đắk X, xã Đắk Dr, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Lê Minh L – Vắng mặt. Địa chỉ: 441B Lê D, phường Ea T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Những người tham gia tố Tng khác:

Người làm chứng:

1/ Anh Hoàng Tiến V – Vắng mặt.

Địa chỉ: Tổ 2, thị trấn M, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

2/ Anh Trần Tuấn A – Có mặt.

Địa chỉ: Tổ 3, thị trấn M, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

3/ Anh Trần Văn V1 – Có mặt.

Địa chỉ: Thôn Đắk X, xã Đắk Dr, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

4/ Anh Trần Đình T - Có mặt.

Địa chỉ: Thôn Đắk X, xã Đắk Dr, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 06/7/2021, sau khi uống rượu tại quán Tuấn T ở tổ 3, thị trấn M, huyện K cùng anh Trần Văn V1 và một số người khác thì Trần Văn Đ được anh V1 chở về phòng trọ tại tổ 1, thị trấn M, huyện K. Trước khi về, anh V1 gửi lại chiếc xe máy hiệu DREAM và 01 chùm chìa khoá của anh Phạm Văn D mà Đ mượn trước đó cho chủ quán là anh Trần Tuấn A. Sau khi về phòng trọ nghỉ ngơi, đến khoảng 16 giờ cùng ngày Đ nảy sinh ý định trộm cắp chiếc loa kéo hiệu Mobell K1507 trong phòng trọ của anh D (phòng trọ anh D bên cạnh phòng trọ của Đ) để cầm cố hoặc bán lấy tiền về quê nên Đ đã gọi điện thoại cho anh Trần Đình T nhờ chở đến quán Tuấn T để lấy chìa khoá. Tại quán, anh Tuấn A đưa lại chùm chìa khoá cho Đ, Đ tháo lấy chiếc chìa khoá phòng trọ của anh D rồi trả lại chùm chìa khoá. Về phòng trọ Đ thu dọn đồ đạc, gọi điện thoại thuê 01 chiếc taxi đến chở lên thành phố Buôn Ma Thuột để bắt xe về quê. Khi xe taxi đến, Đ mở cửa phòng anh D lấy chiếc loa kéo rồi đến tiệm cầm đồ Minh Chiến tại thành phố B cầm cố với giá 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng). Ngày hôm sau, Đ quay lại tiệm cầm đồ bán chiếc loa với giá 3.000.0000 đồng (Ba triệu đồng). Sau khi thực hiện hành vi phạm tội Đ đã bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã của cơ quan CSĐT Công an huyện Krông Nô.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 30/KL-HĐĐG ngày 27/7/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố Tụng hình sự huyện Krông Nô kết luận: giá trị chiếc loa kéo hiệu Mobell K1507 vào thời điểm bị trộm cắp ngày 06/7/2021 là: 5.768.000 đồng (Năm triệu bảy trăm sáu mươi tám nghìn đồng).

Tại bản Cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 22 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) huyện Krông Nô truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Trần Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố bị cáo Trần Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173 của BLHS; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS; xử phạt bị cáo Trần Văn Đ từ 09 tháng đến 15 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị chấp nhận việc gia đình bị cáo Trần Văn Đ tự nguyện bồi thường cho bị hại số tiền 5.000.000đ (Nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Krông Nô theo biên lai thu tiền số 0001633).

Bị cáo không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình mà chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo .

Bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh Tng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và phù hợp với các chứng cứ thu thập được trong hồ sơ. Do muốn có tiền tiêu xài cá nhân, khoảng 17 giờ ngày 06/7/2022, Trần Văn Đ đã lén lút trộm cắp 01 (một) chiếc loa kéo hiệu Mobell K1507, trị giá 5.768.000 đồng (Năm triệu bảy trăm sáu mươi tám nghìn đồng) của anh Phạm Văn D để trong phòng trọ tại tổ 1, thị trấn M, huyện K, tỉnh Đắk Nông. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của BLHS.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô truy tố bị cáo Trần Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

2.… [3] Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự liều lĩnh và ý thức coi thường pháp luật, trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ý thức chấp hành pháp luật cũng như răn đe phòng ngừa chung, cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt đủ nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo .

[3.1] Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo đã tác động gia đình bồi thường, khắc phục hậu quả cho bị hại số tiền 5.000.000đ (nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Krông Nô). Bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3.2] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là có cơ sở và phù hợp nên HĐXX chấp nhận.

[4] Về phần trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tác động gia đình khắc phục hậu quả cho bị hại cho anh Phạm Văn D số tiền 5.000.000đ. Tại phiên tòa, anh D không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm giá trị chiếc loa nên HĐXX không xem xét.

Đối với việc anh Phạm Văn D khai báo ngoài chiếc loa kéo anh còn mất số tiền 18.300.000 đồng (M ười tám triệu ba trăm nghìn đồng) anh cất dưới chiếu trong phòng trọ. Tuy nhiên quá trình điều tra không chứng minh được Đ đã lấy số tiền này, cần tách hành vi để tiếp tục điều tra. Khi nào có cơ sở xử lý sau là phù hợp nên HĐXX chấp nhận.

Đối với việc người có quyền và nghĩa vụ liên quan anh Lê Minh L đã nhận cầm cố và mua lại chiếc loa của Đ, do anh L không biết đây là tài sản trộm cắp mà có nên không xem xét xử lý là phù hợp.

[5] Về xử lý vật chứng: Sau khi Đ bán chiếc loa cho tiệm cầm đồ Minh C, chủ tiệm đã bán lại cho ng ười khác (không rõ nhân thân, lai lịch) nên không thu giữ được chiếc loa. Do đó, không đặt ra vấn đề giải quyết.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án s ơ thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn Đ 09 (Chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 08/6/2022.

2. Về bồi thường thiệt hại: Áp dụng Điều 48 BLHS; Điều 589 Bộ luật Dân sự- Chấp nhận việc gia đình bị cáo và bị hại đã thỏa thuận bồi thường thiệt hại số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng), nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Krông Nô theo biên lai thu tiền số 000163 ngày 20/9/2022.

4. Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, buộc bị cáo Trần Văn Đ phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án phần liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

112
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 36/2022/HS-ST

Số hiệu:36/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Nô - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về