Bản án về tội trộm cắp tài sản số 36/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 36/2022/HS-ST NGÀY 05/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 23/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2022/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Đặng Vũ T, sinh năm 1996 tại Vạn Ninh, Khánh Hòa.

Nơi cư trú: Tổ dân phố 04, thị trấn G, huyện V, tỉnh Khánh Hòa; Nghề nghiệp: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 02/12; Con ông Đặng Vũ H và bà Nguyễn Thị L; Vợ, con: chưa.

Tiền án: Không.

Tiền sự:

- Ngày 04/01/2021 bị Công an thị trấn G xử phạt vi phạm hành chính số tiền 200.000đ về hành vi “Gây mất trật tự” tại Quyết định số 08/QĐ-XPHC.

- Ngày 22/01/2021 bị Công an thị trấn G xử phạt vi phạm hành chính số tiền 200.000đ về hành vi “Gây mất trật tự” tại Quyết định số 15/QĐ-XPHC.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm:

1964, trú tại: Tổ dân phố 07, thị trấn G, huyện V, tỉnh Khánh Hòa – là mẹ ruột của bị cáo (Có mặt).

* Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị T – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Khánh Hòa. (Có mặt)

* Bị hại:

1. Bà Trần Thị Kim N, sinh năm: 1988, trú tại: Thôn Phú Cang 2 Nam, xã Vạn Phú, huyện V, tỉnh Khánh Hòa. (Vắng mặt)

2. Bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm: 1983, trú tại: Tổ dân phố 07, thị trấn G, huyện V, tỉnh Khánh Hòa. (Vắng mặt)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm: 1964, trú tại: Tổ dân phố 07, thị trấn G, huyện V, tỉnh Khánh Hòa. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vụ 1: Khoảng 14h00’ ngày 11/7/2021, Đặng Vũ T đi bộ một mình từ nhà đến khu vực chợ huyện V để tìm tài sản sơ hở trộm cắp. Khi đến đường Hùng Lộc Hầu (tiếp giáp với chợ huyện V) thuộc Tổ dân phố 01 – thị trấn G – Vạn Ninh – Khánh Hòa, thì T phát hiện xe mô tô biển số 79V1-427.84 của bà Trần Thị Kim N đang dựng trên đường không có ai trông coi, trên cổ xe có treo 01 túi nhựa nilon màu xanh. T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản bên trong túi này nên lén lút tiếp cận lấy được túi rồi đem về nhà tại Tổ dân phố 04 – thị trấn G. Tại nhà, T kiểm tra thì phát hiện bên trong túi có số tiền 487.000đ và 01 điện thoại di động hiệu VIVO màu đen có gắn ốp lưng màu cam, bên trong ốp lưng có 01 tờ tiền mệnh giá 200.000đ. T đem điện thoại cất vào tủ đồ trong phòng của T, rồi đem số tiền 687.000đ (Sáu trăm tám mươi bảy nghìn đồng) vừa trộm được đến khu vực đường Trần Hưng Đạo thuộc Tổ dân phố 04 – thị trấn G mua 01 gói cần sa từ một nam thanh niên tên Mỹ (không rõ lai lịch) hết 50.000đ và mua 01 gói thuốc lá hết 10.000đ, còn lại 627.000đ T cất giấu vào mũ vải rồi đội lên đầu. Sau khi sử dụng cần sa xong, T quay về nhà mượn xe đạp của mẹ là Nguyễn Thị L, rồi điều khiển lên khu vực chợ huyện V nghe ngóng tình hình thì bị lực lượng Công an phát hiện đưa về trụ sở làm việc. Quá trình di chuyển về trụ sở Công an, T làm rơi mũ bên trong có số tiền 627.000đ mà T cất giấu trước đó, lực lượng Công an đã tổ chức truy tìm nhưng không thu giữ được.

Tại Kết luận định giá tài sản số 67/2021/KL-TTHS ngày 09/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện V kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO 1916, 01 sim điện thoại di động mạng Vinaphone và 01 ốp lưng điện thoại có tổng giá trị: 3.257.000 đồng (Ba triệu hai trăm năm mươi bảy nghìn đồng).

Tại bản kết luận giám định pháp y tâm thần số: 206/KLGĐ ngày 10/12/2021, của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Tây Nguyên kết luận: Trước, trong và sau khi thực hiện hành vi phạm tội “Trộm cắp tài sản” (ngày 11/7/2021) và hiện tại Đặng Vũ T: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

Vụ 2: Khoảng 14h00’ ngày 20/9/2021, Đặng Vũ T đi bộ một mình trên đường Nguyễn Trãi thuộc Tổ dân phố 7 – thị trấn G – Vạn Ninh – Khánh Hòa. Khi đi ngang qua quán tạp hóa của bà Nguyễn Thị Thu H thì phát hiện trên ghế đá tại sân quán tạp hóa có để 01 túi xách hiệu APPLE không có ai trông coi, nên nảy sinh ý định trộm cắp túi xách này. T nhặt 01 cây chổi trước sân quán tạp hóa, rồi dùng cây chổi này khều túi xách từ ghế đá ra cửa cổng rồi lấy trộm túi xách này. T bỏ lại cây chổi, rồi cầm túi xách vừa trộm được đi bộ một đoạn khoảng 50m thì kiểm tra phát hiện trong túi xách có 1.250.000đ (Một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) và 144 (Một trăm bốn mươi bốn) thẻ cào điện thoại di động với nhiều mệnh giá khác nhau của nhiều nhà mạng. T lấy 1.250.000đ và 144 thẻ cào cất giữ trong người, còn túi xách thì vứt lại vỉa hè đường Nguyễn Trãi, rồi sử dụng 50.000đ trong số tiền vừa trộm được tiêu xài cá nhân. Sau đó hành vi phạm tội của Đặng Vũ T bị Cơ quan Công an phát hiện, T giao nộp số tiền 1.200.000đ còn lại và 144 thẻ cào cho Cơ quan Công an.

Tại Kết luận định giá tài sản số 85/2021/KL-TTHS ngày 16/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện V kết luận: 144 (Một trăm bốn mươi bốn) thẻ cào điện thoại di động với mệnh giá từ 10.000đ đến 100.000đ của các nhà mạng Viettel, Mobiphone, Vinaphone, Vietnammobile và 01 (một) túi xách loại có quai đeo hiệu APPLE có tổng giá trị: 5.230.000 đồng (Năm triệu hai trăm ba mươi nghìn đồng).

Tại bản kết luận giám định pháp y tâm thần số: 06/KLGĐ ngày 06/01/2022, của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Tây Nguyên kết luận: Trước, trong và sau khi thực hiện hành vi phạm tội “Trộm cắp tài sản” (ngày 20/9/2021) và hiện tại Đặng Vũ T: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

Tại Cáo trạng số: 25/CT-VKSVN ngày 11/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã truy tố bị cáo Đặng Vũ T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên nội dung truy tố bị cáo Đặng Vũ T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Đặng Vũ T mức hình phạt từ 01 năm tù đến 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tại phiên tòa, bị cáo Đặng Vũ T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Người bào chữa cho bị cáo nhất trí với ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát về tội danh đã truy tố tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm q khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và Điều 65 Bộ luật hình sự để cho bị cáo được hưởng án treo. Người đại diện hợp pháp cho bị cáo và bị cáo nhất trí với ý kiến của người bào chữa. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo sớm hòa nhập cộng đồng, là một công dân có ích cho gia đình và xã hội. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Nguyễn Thị L không có yêu cầu gì về phần dân sự;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tất cả bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét thấy, việc vắng mặt của bị hại không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về nội dung:

Tại phiên tòa bị cáo Đặng Vũ T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường, Kết luận định giá tài sản và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Đồng thời, qua phần xét hỏi, tranh luận công khai tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận:

Trong các ngày 11/7/2021 và 20/9/2021 trên địa bàn Tổ dân phố 01 và Tổ dân phố 07 thuộc thị trấn G – Vạn Ninh – Khánh Hòa, Đặng Vũ T đã có hành vi lén lút trộm cắp các tài sản gồm 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO 1916, 01 sim điện thoại di động mạng Vinaphone, 01 ốp lưng điện thoại và số tiền 687.000đ của bà Trần Thị Kim N; trộm cắp 144 thẻ cào điện thoại di động nhiều nhà mạng với mệnh giá từ 10.000đ đến 100.000đ, 01 túi xách loại có quai đeo hiệu APPLE và số tiền 1.250.000đ của bà Nguyễn Thị Thu H. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là: 10.424.000đ (Mười triệu bốn trăm hai mươi bốn nghìn đồng).

Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V truy tố bị cáo về tội danh theo điều khoản nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, xâm phạm đến an ninh, trật tự công cộng, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là người bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi tuy nhiên bị cáo vẫn có đủ khả năng nhận thức được trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện.

Mặt khác, bị cáo có 02 tiền sự về hành vi “gây mất trật tự” và đã bị công an thị trấn G ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính vào các ngày 04/01/2021 và ngày 22/01/2021 nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục vi phạm pháp luật.

Bên cạnh đó, ngày 11/7/2021 bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản đã bị cơ quan chức năng phát hiện và trong quá trình xác minh, làm rõ đối với vụ việc này thì ngày 20/9/2021, bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp khác, cho thấy ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo rất kém.

Từ những phân tích trên, cho thấy nhân thân của bị cáo không tốt nên bị cáo không đủ điều kiện để được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự theo đề nghị của người bào chữa. Do đó, hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm và cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo đã 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản vào các ngày 11/7/2021 và ngày 20/9/2021, mỗi hành vi đều đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do đó, bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ: Theo Kết luận giám định pháp y tâm thần có trong hồ sơ thể hiện “trước, trong và sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi” nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm q khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, do đó đề nghị của người bào chữa về việc áp dụng điểm q khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo là có cơ sở nên được chấp nhận. Mặt khác, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã tác động bà Nguyễn Thị L là mẹ ruột của bị cáo bồi thường số tiền 600.000 đồng cho bị hại bà Trần Thị Kim N nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đồng thời, người bị hại bà Trần Thị Kim N có yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì các lý do trên, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo để bị cáo an tâm cải tạo, sớm hòa nhập cộng đồng làm công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại đã nhận lại tài sản chiếm đoạt và không có yêu cầu gì; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xét.

[7] Về các vấn đề khác: Đối với người thanh niên tên “Mỹ” đã bán cần sa cho Đặng Vũ T, do chưa xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 173; điểm b, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự;

- Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xử phạt bị cáo Đặng Vũ T 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Về án phí: Bị cáo Đặng Vũ T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo là bà Nguyễn Thị L (đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan), người bào chữa cho bị cáo là Trợ giúp viên pháp lý Nguyễn Thị T được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại Trần Thị Kim N, Nguyễn Thị Thu H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

124
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 36/2022/HS-ST

Số hiệu:36/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vạn Ninh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về