Bản án về tội trộm cắp tài sản số 35/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH A, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 35/2023/HS-ST NGÀY 14/06/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 27/2023/TLST-HS ngày 12 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2023/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2023, đối với:

- Bị cáo: Bùi Tuấn N; tên gọi khác: Không có; sinh năm 1989; tại tỉnh Hậu Giang. Nơi cư trú: Ấp 4, xã TH, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa (học vấn): 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Hoàng B, sinh năm 1959 (chết) và bà Trần Thị T, sinh năm 1966; bị cáo có 02 người chị sinh năm 1984 và 1986; bị cáo có vợ tên Huỳnh Thị T, sinh năm 1989 nhưng đã ly hôn (bị cáo khai tại phiên tòa); có 02 người con sinh năm 2009 và 2012; tiền án: Bị cáo có 02 tiền án về tội trộm cắp tài sản theo Bản án số 62/2015/HSST ngày 14/4/2015 của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ và Bản án số số 04/2018/HSST ngày 30/01/2018 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang; tiền sự: Không có; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 19 tháng 3 năm 2023 đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Bùi Tuấn N: Bà Trịnh Thị Trúc L – Trợ giúp viên pháp lý hạng III của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hậu Giang – Có mặt.

- Bị hại:

Bùi Gia B, địa chỉ: Ấp TH, xã TLA, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang – Vắng mặt.

Nguyễn Thị L, địa chỉ: Ấp TBA, xã TLA, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang – Vắng mặt.

Người có quyền lợi, N vụ liên quan đến vụ án:

Trần Thị T, địa chỉ: Ấp TPB, xã TLT, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang – Vắng mặt.

Nguyễn Thị Ú, địa chỉ: Ấp 2A, xã TH, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang – Vắng mặt.

Nguyễn Hoàng M, địa chỉ: Ấp TK1, xã LT, huyện PH, tỉnh Hậu Giang – Vắng mặt.

Người làm chứng: Bùi Thanh P – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ ngày 17/9/2022, bị cáo Bùi Tuấn N điều khiển xe môtô, nhãn hiệu Wave, biển kiểm soát 95P1-8124 đến tiệm bán gạo nhà anh Bùi Gia B hỏi mua 03kg gạo. Lúc này, anh B đang bán gạo cho người khác, N đứng đợi và nhìn xung quanh phát hiện một điện thoại di động của anh B để trong mũ B hiểm đặt trên băng ghế đá trước nhà nên nảy sinh ý định lấy trộm. N lợi dụng lúc anh B cân gạo, đã lén lút đi lại lấy trộm điện thoại Samsung Galaxy J7 Prime màu hồng của anh B đang để trong nón B hiểm đặt trên ghế đá phía trước nhà rồi bỏ vào túi quần và nói với B “cân gạo đi anh đi lại đây rồi quay lại lấy”. Sau đó, Bùi Tuấn N điều khiển xe chạy về nhà. Khi phát hiện bị mất điện thoại, anh B trình báo Công an xã Tân Hòa. Qua xem xét camera xác định được N đã lấy điện thoại nên lực lượng Công an đã đến gia đình N vận động, kêu gọi N ra trình diện, làm việc. Khi biết lực lượng Công an đang tìm mình, N đem điện thoại về đưa cho mẹ ruột là bà Trần Thị T để giao nộp lại cho cơ quan Công an.

Khi lực lượng Công an đang tìm N để mời làm việc, thì đến khoảng 14 giờ 40 phút ngày 26/9/2022, Bùi Tuấn N điều khiển xe môtô, biển kiểm soát 95P1-8124 trên Tỉnh lộ 926 đến đoạn thuộc ấp Trường Bình A, xã Trường Long A, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang, nhìn thấy quán nước mía của chị Nguyễn Thị L nên Bùi Tuấn N dừng xe lại để mua nước mía uống. N vào quán chị L hỏi mua nước mía. Lúc này, chị L đi qua bên kia lộ đối diện hái trái hạnh để làm nước mía, thì N đi vào bên trong quán, phát hiện điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A15S màu xanh đậm của chị L đang sạc trên kệ liền dùng tay rút chui sạc điện thoại, cầm điện thoại trên tay định cất giấu thì chị L quay lại quán phát hiện nên truy hô và cùng người dân xung quanh giữ N cùng điện thoại vừa lấy trộm lại và trình báo Cơ quan Công an làm rõ.

Quá trình điều tra, N chỉ thừa nhận hành vi trộm cắp điện thoại di động của anh Bùi Gia B. Đối với điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A15S màu xanh đậm của chị L, N cho rằng chỉ có ý định đi vào nhà xem giờ, thấy điện thoại đang sạc nên dùng tay lấy điện thoại rút chui sạc ra, cầm trên tay để xem giờ thì bị chị L phát hiện, truy hô và cùng những người xung quanh giữ lại. Tuy nhiên, căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã thu thập, đủ cơ sở khẳng định Bùi Tuấn N đã thực hiện hành vi trộm cắp điện thoại di động của anh Bùi Gia B vào ngày 17/9/2022 và của chị Nguyễn Thị L vào ngày 26/9/2022.

Tại Kết luận định giá tài sản số 35/KL-ĐGTS ngày 27/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc UBND huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang kết luận định giá tài sản trong vụ Trộm cắp tài sản, xảy ra ngày 17/9/2022, tại ấp Trường Hòa, xã Trường Long A, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang, tổng giá trị là 747.500đồng.

Tại Kết luận định giá tài sản số 36/KL-ĐGTS ngày 27/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc UBND huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang kết luận định giá tài sản trong vụ Trộm cắp tài sản, xảy ra ngày 26/9/2022, tại ấp Trường Bình A, xã Trường Long A, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang, tổng giá trị là 2.593.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 29/CT-VKS-HCTA ngày 09/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A truy tố bị cáo Bùi Tuấn N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Bùi Tuấn N thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, thống nhất nội dung truy tố của Viện kiểm sát.

Các bị hại ông Bùi Gia B, Nguyễn Thị L vắng mặt, không yêu cầu bị cáo bồi thường.

Người có quyền lợi, N vụ liên quan đến vụ án Trần Thị T, Nguyễn Thị Ú, Nguyễn Hoàng M vắng mặt không rõ lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo N. Sau khi phân tích tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Bùi Tuấn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 và điểm h, g khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt các bị cáo Bùi Tuấn N từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giam là ngày 19 tháng 3 năm 2023. Đề nghị tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm B việc thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Ngày 06/4/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành A đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho anh Bùi Gia B một điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime màu hồng đã qua sử dụng, trả lại cho chị Nguyễn Thị L một điện thoại di động hiệu Oppo A15S màu xanh đậm đã qua sử dụng.

Đối với xe môtô và một giấy đăng ký xe môtô, nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát 95P1-8124 đã qua sử dụng là của bị cáo mua xe cũ của người khác nhưng chưa làm sang tên chủ sở hữu, nên đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo.

Về phần trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản không có yêu cầu bồi thường nên không xem xét, giải quyết.

Ý kiến bào chữa của người bào chữa cho bị cáo: Bị cáo Bùi Tuấn N thuộc hộ cận nghèo, trình độ học vấn thấp, có con còn nhỏ, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, gây thiệt hại không lớn nên đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức hình phạt nhẹ nhất theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Ý kiến tranh luận của bị cáo N: Không có.

Ý kiến đối đáp của đại diện Viện kiểm sát: Không có.

Bị cáo Bùi Tuấn N nói lời nói sau cùng: Trong thời gian bị tạm giam bị cáo đã biết lỗi, bị cáo xin cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm về với gia đình chăm sóc mẹ già và nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Thành A, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, N vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, các bị hại Bùi Gia B, Nguyễn Thị L vắng mặt có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt và không có yêu cầu bồi thường. Người có quyền lợi, N vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng vắng mặt nhưng đã có lời khai trong hồ sơ vụ án, việc vắng mặt những người này không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 292, 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 xét xử vắng mặt những người này.

[2] Về nội dung giải quyết vụ án:

[2.1] Về hành vi phạm tội: Trong quá trình điều tra bị cáo chỉ thừa nhận hành vi phạm tội xảy ra ngày 17/9/2022, không thừa nhận trộm điện thoại của chị Nguyễn Thị L vào ngày 26/9/2022. Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Bùi Tuấn N đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội theo truy tố của Viện kiểm sát. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, N vụ liên quan đến vụ án, biên bản hỏi cung bị can, kết luận định giá cùng những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận như sau:

Với động cơ tư lợi cá nhân, vào khoảng 12 giờ ngày 17/9/2022, tại ấp Trường Hòa, xã Trường Long A, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang, Bùi Tuấn N đã lén lút lấy trộm một điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime màu hồng đã qua sử dụng có giá trị theo kết luận định giá là 747.500đồng của anh Bùi Gia B. Đến khoảng 14 giờ 40 phút ngày 26/9/2022, tại ấp Trường Bình A, xã Trường Long A, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang, Bùi Tuấn N đã lén lút lấy trộm một điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A15S màu xanh đậm đã qua sử dụng có giá trị theo kết luận định giá là 2.593.000đồng của chị Nguyễn Thị L.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo nhận thức được hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật B vệ nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp hai lần vào ngày 17/9/2022 và ngày 26/9/2022, bị cáo có 02 tiền án về tội trộm cắp tài sản nên hành vi của bị cáo trong cả hai lần nêu trên đều đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Do đó, Cáo trạng số 29/CT-VKS-HCTA ngày 09/5/2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang đề nghị truy tố bị cáo theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[2.2] Quyết định hình phạt:

Về tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm và phạm tội hai lần trở lên. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật B vệ, gây ảnh hưởng xấu đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm hiện nay. Bản thân bị cáo là đối tượng không có nghề nghiệp ổn định. Do đó, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo, giúp bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm và phạm tội từ 2 lần trở lên theo quy định tại điểm h, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra bị không thừa nhận trộm tài sản của chị L, tuy nhiên tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải; bị cáo phạm tôi nhưng gây thiệt hại không lớn; gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Từ những phân tích trên, khi lượng hình Hội đồng xét xử sẽ xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo để có mức hình phạt phù hợp, đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo vừa thể hiện được tính khoan hồng của pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có thu nhập ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[2.3] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[2.4] Về xử lý vật chứng: Đối với xe mô tô và giấy đăng ký xe mô tô BKS 95P1-8124 của bị cáo mua xe cũ nhưng chưa sang tên chủ sở hữu nên Hội đồng xét xử giao trả lại cho bị cáo, nếu sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác theo thủ tục tố tụng dân sự.

[2.5] Về án phí: Áp dụng Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Bùi Tuấn N được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

[3] Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Bùi Tuấn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1, Điều 173; điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Bùi Tuấn N 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giam là ngày 19 tháng 3 năm 2022. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày 14 tháng 6 năm 2023 để đảm B việc thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Trả lại cho bị cáo 01 (một) xe mô tô và 01 (một) giấy đăng ký xe mô tô, nhãn hiệu Honda Wave, biển số kiểm soát 95P1-8124 đã qua sử dụng. Nếu sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác theo thủ tục tố tụng dân sự.

3. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Bùi Gia B và Nguyễn Thị L không có yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Áp dụng điểm đ, khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Bùi Tuấn N được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Bùi Tuấn N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Các bị hại Bùi Gia B, Nguyễn Thị L có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. Người có quyền lợi N vụ liên quan đến vụ án Trần Thị T, Nguyễn Thị Ú, Nguyễn Hoàng M có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, N vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

87
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 35/2023/HS-ST

Số hiệu:35/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành A - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về